VỀ HỘI
NGHỊ THÀNH ĐÔ
Từ khi xẩy ra Hội nghị
Thành Đô vào ngày 3 và 4/tháng 9/năm 1990 tới nay, cộng sản Việt Nam không
ngừng dâng đất, nhượng biển và qụy lụy Trung cộng. Từ đó có người cho rằng đây
là một hội nghị bán nước.
Có phải thế không ?
Chúng ta cùng nhau xem
xét vấn đề.
I ) Tình hình thế
giới cộng sản trước Hội nghị Thành đô
- Tình
hình tại Liên sô
Tình hình Liên sô trước
Hội nghi Thành đô 1990 là một tình hình: kinh tế thì đổ nát, chính trị thì
không những dân, mà chính giới lãnh đạo, từ dưới lên trên, phần lớn hết tin
tưởng vào chính quyền, vào đảng Cộng sản.
Bắt đầu bằng Brejnev, Tổng bí thư,
trước khi chết, đã phải than lên: « Xã hội chủ nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài
đường là ăn cắp săng của công, 1/3 bằng cấp là bằng cấp giả, công chức đến sở
làm việc là đến cho có mặt, sau đó thì đi coi hát hay làm việc riêng. » Thêm
vào đó, khi Brejnev chết, hai ông già lên thay, vừa bệnh hoạn, vừa chết sớm,
Andropov, cầm quyền từ 1983 tới 1984, Tchernenko, lên thay, nhưng chỉ mấy tháng
sau thì bệnh nặng, không thể cầm quyền, thực quyền ở trong tay Gorbatchev, cho
tới khi Tchernenko chết, Gorbatchev lên ngôi chính thức vào năm 1985.
Gorbatchev nhận một gia
tài cộng sản đổ nát, muốn cải tổ, tuy nhiên lúc đầu ông còn thận trọng, chỉ
dùng những biện pháp nhỏ, như đưa ra những đạo luật xử phạt mạnh tham nhũng hối
lộ, cấm dân nghiện rượu, cấm công chức bỏ giờ làm việc, và đồng thời cho xe đi
hốt những người dân chán nản, thất vọng, uống rượu nằm đầy đường, bắt những
công chức trong giờ làm việc mà lại có mặt ở những tiệm rượu hay những nhà hát.
Nhưng những biện pháp này không đi đến đâu, tham nhũng hối lộ vẫn lan tràn, dân
vẫn mất tin tưởng, vẫn uống rượu, không có rượu thì pha chế với alcool để uống,
kinh tế vẫn đình trệ. Thêm vào đó, những quốc gia bị Nga hoàng và Lénine sát
nhập vào Nga, bắt đầu nổi lên đòi tự trị. Đấy là chưa nói đến những vùng bị đe
dọa bởi nạn đói.
Đến nỗi Gorbatchev, sợ phải than lên:« Tiếng kêu của song
chảo, nồi niêu còn ghê sợ hơn tiếng súng đại bác và xe tăng. »
Người xưa có nói: «
Họa vô đơn chí. Phúc bất trùng lai « (Tai họa không đến một lần. Phúc
không trở lại lần thứ hai). Tình trạng quốc gia xã hội thì đã như vậy, đùng một
cái, ngày 25/4/1986, nhà máy nguyên tử Tcherbobyl bị nổ. Đây là nhà máy được
Liên sô xây vào năm 1977, khánh thành năm 1983, tại phía bắc thủ đô Kiev của
nước Ukraine ngày hôm nay. Nhà máy nguyên tử này nổ ra mới cho dân và thế giới
thấy tình trạng tồi tệ của nước Liên sô về hạ tầng cơ sở. Để chữa cháy, ngăn
cản phóng xạ thoát ra ngoài, người lính không có một bộ đồ mặc chống phóng xạ,
họ phải dùng những chiếc áo mưa. Lúc đầu, cơ quan cấp dưới còn dấu diếm, nhưng
sau không thể, phải báo cáo lên cấp trên, tới Gorbatchev.
Từ lúc này Gorbatchev
mới thấy không thể dùng những biện pháp cải tổ nhỏ, mà phải cải tổ sâu rộng,
nên đã đưa ra :
- Chính
sách Trong sáng ( Glasnost ), cấm cơ quan cấp dưới che dấu sự thật, phải làm
những bản tường trình trong sáng, nói lên sự thật.
- Chính
sách tái cấu trúc ( Pérestroika), để được như vậy, thì phải tái cấu trúc guồng
máy quốc gia, cách chức những công chức tham nhũng hối lộ, bất tài, dựa vào con
ông cháu cha mà được lên chức, từ từ thực hiện bầu cử tự do, cho phép đối lập
hoạt động, báo chí được quyền nói lên sự thật.
Có người tố cáo
Gorbatchev là người của CIA, Cơ quan tình báo Hoa kỳ, gài vào để làm sụp chế độ
cộng sản. Thực ra không phải vậy. Không có một bằng cớ, một tài liệu nào chứng
tỏ ông là người của CIA. Ông chỉ muốn cứu và cải tổ một chế độ không thể cải tổ
được mà chỉ có thay thế; và con đường ông đi là con đường tất yếu của lịch sử,
nếu muốn nghĩ đến dân, đến nước, nếu muốn theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.
Thực vậy, căn nhà xã hội
chủ nghĩa được xây dựng trên một nền móng sai lầm là lý thuyết Mác Lê. Marx chủ
trương bãi bỏ quyền tư hữu, đấu tranh giai cấp. Bãi bỏ quyền tư hữu có nghĩa là
bãi bỏ một nguyên động lực chính thúc đẩy con người làm việc, đưa xã hội cộng
sản lâm vào cảnh « Cha chung không ai khóc. Nhà chung không người chăm sóc.
Ruộng chung không ai cày. » Người dân đến hợp tác xã là để có mặt, làm việc
cho lấy có, mang tâm trạng « Ta làm việc nhiều cũng chỉ lãnh lương như người
làm ít hay không làm. » Đã từ lâu, những máy cày, xe cộ của hợp tác xã, bị
bỏ mục nát ở ngoài đồng. Số khoai lang đào được, 1/3 để hư thối ở ngoài đồng,
1/3 hư thối vì chuyên chở và bảo trì không cẩn thận ở trong kho.
Ông Jegor Gaida, người
đã từng làm Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng bộ kinh tế thời Tổng thống Boris Eltsine,
thì cho rằng sở dĩ có sự sụp đổ của Liên sô là vì khí đốt và dầu hỏa, trong một
quyển sách ông viết sau khi không còn tại chức. Theo ông, vào những năm 70, giá
khí đốt và dầu hỏa tăng, Liên sô là quốc gia xuất cảng 2 thứ này, nên nguồn
thâu nhập tăng. Chính vì vậy mà suốt thời Brejnev làm Tổng bí thư từ năm 1964
tới năm 1983, Liên sô không những chạy đua vũ khí với Hoa kỳ, làm ông chủ thầu,
đặt vũ khí ở những nước đàn em, như Ba lan thì sản xuất tàu thủy, Đông Đức thì
sản xuất xe tăng, Tiệp khắc thì sản xuất súng AK47 v.v… Nhưng đến những năm 80,
thì giá khí đốt và dầu bắt đầu giảm, khiến phần thu nhập của Liên sô cũng giảm,
lôi theo các nước đàn em.
Phần nhận xét này của
ông Gaida không phải là không đúng, nhưng nó chỉ là một phần và có tính cách
ngắn hạn. Một đế quốc, một triều đại sụp đổ tất nhiên là đến từ nhiều nguyên
nhân: nguyên nhân gần, nguyên nhân xa, nguyên nhân trung hạn, nguyên nhân thật
xa.
Nguyên nhân sụp đổ thật
xa của của Liên sô bắt đầu từ nền tảng triết học của Marx, như trên đã nói là
chủ trương bãi bỏ quyền tư hữu.
Nguyên nhân trung hạn đó
là tư tưởng của Lénine lập nên nhà nước độc đảng, độc tài, áp dụng lý thuyết
không tưởng của Marx, trong những đợt đánh tư bản mại sản, giết chết hết giai
tầng trung lưu.
Chính Boris Eltsine, đã
từng là người cộng sản, Uỷ viên Bộ Chính trị, phải than lên khi ông làm Tổng
thống xứ Nga: « Nước Nga đã không còn giai tầng trung lưu, giai tầng năng
động và là xương sống của xã hội. Đâu còn những con người tháo vát, chỉ cần tay
cầm một con dao lớn, đi vào rừng, rồi tạo nên tất cả, nhà để ở, ruộng để cấy
lúa, đất để trồng trọt, không những nuôi sống thân mình, gia đình mình, mà còn
những gia đình khác. »
Ngoài ra còn nhiều những
nguyên nhân khác, như Chiến tranh lạnh, Hoa kỳ nhằm đánh cộng sản, dụ Liên sô
vào một cuộc chạy đua vũ trang, lâm vào cảnh kẻ nghèo thi đua tiêu tiền với kẻ
giàu.
Từ đó mang lại những
nguyên nhân gần, tham nhũng, hối lộ, dân mất hết tin tưởng vào Đảng Cộng sản và
chính quyền, trước cuộc sống khó khăn, càng ngày càng bế tắc, dân sinh ra
nghiện rượu.
Thế giới trước năm 1990
còn bị đè nặng dưới áp lực của Chiến tranh lạnh, gồm 2 khối : Khối cộng
sản lãnh đạo bởi Liên sô, mặc dầu có sự tranh quyền của Trung cộng, Khối tư bản
dưới sự lãnh đạo của Hoa kỳ. Vì vậy tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của
Liên sô có ảnh hưởng trực tiếp không những đối với những nước cộng sản, mà còn
đến cả thế giới.
Trong khuôn khổ bài này
tôi chỉ xin nói về ảnh hưởng của Liên số đối với Việt Nam, Trung cộng và tất
nhiên ảnh hưởng đến Hội Nghị Thành đô 1990.
I I ) Tình hình
Việt nam sau khi Lê Duẫn chết vào tháng 7/1986, trước Hội nghị Thành đô
Có thể nói Lê Duẫn là
người cuồng tín theo Liên sô, đúng hơn là theo Brejnev, tự biến Việt Nam thành
một con chốt trong bàn cờ tranh hùng tư bản - cộng sản, theo kế hoặch của
Brejnev.
Brejnev lên chức Tổng bí
thư năm 1964, sau khi hạ bệ Khrouschev, ông này bị chỉ trích là đã mềm yếu
trước tư bản vì cho rằng « Tư bản mạnh « chủ trương chính sách hòa
hoãn với tư bản, quay về sửa sai chế độ cộng sản. Chính vì vậy mà khi lên ngôi
Tổng bí thư năm 1953, chỉ ba năm sau, 1956, Khrouschev tố cáo chính sách tôn
thờ cá nhân của Staline, chủ trương bắt tay với Hoa kỳ, « Chung sống hòa
bình «, « Nguyên tử phục vụ hòa bình «.
Brejnev hoàn toàn chủ
trương ngược lại, cho rằng khối cộng sản không yếu như người ta tưởng, khối tư
bản không mạnh như người ta nghĩ, mà ngược lại. Vì vậy ông chủ trương quên đi
những khó khăn nội bộ, đẩy mạnh cuộc chiến chống tư bản, sau khi chiến thắng tư
bản trên toàn thế giới, lúc đó trở về sửa sai cũng không muộn. Brejnev đã đưa
ra một chiến lược gồm 2 kế sách: Thượng sách đẩy mạnh công cuộc chống tư bản ở
mọi nơi trên thế giới, đưa đến chỗ tư bản phải sụp đổ tất yếu như lời dạy của
Marx. Trung sách, nếu không thì chia đôi thế giới lấy trục Sài Gon, Phnom Penh,
Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới tuyến, bên này phía đông thuộc về công sản,
bên kia phía tây thuộc về tư bản.
Chính sách của Brejnev
có vẻ hấp dẫn, được đa số trong Trung ương đảng nghe theo, nên có việc hạ bệ
Khrouschev vào năm 1964.
Brejnev dùng ba con chốt
chính để thực hiện chiến lược của mình : Bên châu Mỹ, Phi châu thì dùng
Cuba với Phidel Castro; bên Âu châu thì dùng Đông Đức; bên Á châu thì dùng Việt
Nam. Lê Duẫn là con chốt trung thành bậc nhất của Brejnev
Brejnev sửa sọan thượng
sách trong vòng 4 năm và bắt đầu tấn công tư bản, như ở Việt Nam chúng ta thấy
có Tết Mậu thân 1968, ở Âu châu và ngay ở Mỹ châu có « Phong trào Hòa bình «,
những cuộc biểu tình phản chiến, sinh viên xuống đường, đứng đằng sau là những
đảng cộng sản, những trí thức thân tả, bên Phi châu thì có những cuộc đảo chính
thân cộng sản như ở Ethiopie v.v…
Quả thực lúc đầu có
những kết quả ngoạn mục, thế giới tư bản, ngay cả tại Mỹ, có những cuộc biểu
tình cả triệu người, thế giới tư bản quả thật bị rung rinh. Tuy nhiên đấy chỉ
là kết quả có vẻ ngoạn mục lúc ban đầu, nhưng thế giới tư bản không sụp, mà ngược
lại, ngân sách chi phí ra bên ngoài của Liên sô càng ngày càng tăng. Nói như
một viên tướng Liên sô lúc bấy giờ:« Những thành quả gặt hái của Liên sô
không làm tư bản lay chuyển, mà chỉ là những gánh nặng, những chương mục thêm
để Liên sô gửi tiền giúp đỡ. »
Thêm vào đó tư bản, đứng
đầu là Hoa kỳ, lại tìm cách khai thác tối đa sự bất đồng giữa Trung cộng và
Liên sô. Nên có việc Nixon gặp Mao ở Bắc kinh, ra tuyên bố chung ở Thượng hải
năm 1972.
Có người nói, thượng
sách của Brejnev được thực hiện trong vòng 8 năm, từ năm 1964 tới 1972, thì
chấm dứt, Brejnev phải quay ra thực hiện trung sách, chia đôi thế giới, giữ
những gì mình đã gặt hái được.
Chính vì vậy mà có việc
Liên sô gửi quân sang xâm chiếm A phú hãn, ký hiệp ước quân sự với Việt Nam và
cộng sản Việt Nam gửi quân qua xâm chiếm Căm bốt năm 1978, để làm giới tuyến
cộng sản tư bản Sài Gòn – Phnom Penh – Bangkok – Kaboul – Moscou như vừa nói ở
trên.
Người khác lại cho rằng
thượng sách được kết thúc vào năm 1975, thực ra là vào ngày 1/8/1975, ngày ký
Hiệp ước Helsinski, chỉ sau khi quân đội cộng sản xua quân vào cưỡng chiếm miền
Nam Việt nam khoảng 3 tháng.
Trong khi cộng sản Việt
nam mù quáng vui mừng « chiến thắng » và còn có người u mê đến nỗi
cho rằng trong tương lai sẽ « gửi quân sang giải phóng Hoa kỳ « ,
không biết gì đến tình hình thế giới và ngay cả tình hình khối cộng sản, thì
Brejnev, một chỗ dựa « vững chắc « của Lê Duẫn, đã phải lùi bước, đi
từ thế công sang thế thủ ở Hội nghị Helsinki, Phần Lan, họp vào cuối tháng 7,
gồm các nước Âu châu cộng thêm Hoa kỳ và Gia nã đại. Ở Hội nghị này, Brejnev
yêu cầu các nước Âu châu cộng với Hoa kỳ và Gia nã đại công nhận : 1) Biên
giới sẵn có của Âu châu, nhất là giữa Liên sô, Ba lan và Đức, lấy sông Oder làm
ranh giới, vì vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, Staline đã chiếm một phần lãnh thổ của
Ba lan, và bù lại thì lại lấy một phần lãnh thổ của Đức sát nhập vào Ba lan ;
2) Yêu cầu thế giới chấp nhận học thuyết Brejnev, theo đó, những nước dưới sự
ảnh hưởng của Liên sô chỉ có độc lập giới hạn và Liên sô có quyền gửi quân đến
những nước này nếu cần.
Ngược lại thế giới tự do
yêu cầu Liên sô phải mở cửa kinh tế để buôn bán với các nước tự do, không thể
phá sóng những đài tự do chuyển vào thế giới cộng sản, phải thả một số tù nhân
lương tâm.
Khi tham dự và ký những
điều khoản của Hiệp ước Helsinski, có một người tướng của Cơ quan Quân báo Liên
sô cho rằng « Liên sô ký Hiệp ước này là đã để cho tư bản chọc thủng phòng
tuyến của mình «. Điều nhận xét của viên tướng này cho tới ngày Liên sô sụp đổ,
quả không sai.
Trở về tình hình cộng
sản Việt nam, vẫn u mê với « Chiến thắng «, vẫn nghĩ rằng « Tư bản
đang giãy chết «, « Cộng sản sẽ toàn thắng trên toàn thế giới «, họ vẫn ở
kế thượng sách của chiến lược Brejnev, trong khi ông này đã phải lùi về kế
trung sách. Chính vì vậy mà cộng sản Việt nam xua quân sang xâm chiếm Căm bốt
năm 1978 và còn hăm he tiến đánh Thái lan. Tuy nhiên cả Liên sô và cộng sản
Việt nam, một bên thì bị sa lầy ở Căm bốt, bên kia thì bị sa lầy ở A phú hãn.
Đấy là chưa nói đến sự
kiện Hoa kỳ và Trung cộng xích lại gần nhau hơn. Đặng tiểu Bình đã trở lại
chính quyền năm 1976 và 2 năm sau 1978 nắm thực quyền, đã vội vã sang thăm Hoa
kỳ năm 1979, đóng vai một người Hoa Kỳ, đội mũ cao bồi, đi xem đua ngựa. Cùng
năm 1979, thì xua quân vượt biên giới « Dạy cho Việt nam một bài học ».
Từ ngày Hội nghị
Helsinski tới ngày Brejnev chết, tình hình thế giới cộng sản càng ngày càng xấu
đi, tại quốc nội cũng như quốc ngoại.
Quốc nội thì nói chung
các nước cộng sản, kinh tế càng ngày càng tồi tệ, dân bất mãn, bỏ nước ra đi
như ở Việt nam, tại Liên sô thì dân sinh ra nghiện rượu; quốc ngoại thì xẩy ra
tranh chấp Việt - Căm bốt, Việt - Hoa, Nga - Hoa. Tranh chấp Nga – Hoa trở nên
cao độ. Hoa kỳ lợi dụng tình thế này để chia rẽ thế giới cộng sản.
Brejnev chết là một mất
mát lớn với cộng sản Việt nam, đặc biệt là với Lê Duẫn, người tuân thủ bất cứ
một mệnh lệnh gì và sẵn sàng làm con chốt thí thân cho chiến lược của ông này.
Brejnev chết đi, tình hình Liên sô cũng không có gì sáng sủa, hai ông già lên
thay, Andropov và Tchernenko, trong vòng 2 năm, cho tới khi Gorbatchev kế vị,
rồi thế giới cộng sản Liên sô và Đông Âu sụp đổ. Trong thời gian này thì Lê
Duẫn của Việt Nam vẫn cầm quyền cho tới tháng 7/1986.
Khi Lê Duẫn chết, người
lên kế vị với chức vụ quyền Tổng bí thư là Trường Chinh, vì lúc đó theo thứ tự
trong đảng thì đứng đầu là Lê Duẫn, thứ nhì là Trường Chinh, thứ ba là Phạm văn
Đồng, Lê đức Thọ đứng mãi thứ 6. Trường Chinh sang Liên sô 2 lần vào tháng 7,
tháng 8, mong được sự chấp nhận của Gorbatchev, vì lúc này Gorbatchev đã lên
ngôi. Nhưng ông này không chịu, khuyên những người già nên về hưu, nhường chỗ
cho những người trẻ. Lợi dùng tình thế này, Lê đức Thọ kéo theo Trường Chinh và
Phạm văn Đồng, ba người đều từ chức, về hưu. Nhưng trên thực tế là khi Lê Duẫn
chết, con người quyền lực nhất lúc bấy giờ là Lê đức Thọ, vì con người này mặc
dầu đứng thứ sáu, thứ bảy, nhưng nắm giữ chức vụ tổ chức nhân sự trong đảng, có
nhiều vây cánh, ác ôn côn đồ, gian manh, xảo quyệt, đầu óc bè phái, gia tộc rất
mạnh.
Mặc dầu rút vào trong
bóng tối, nhưng Lê đức Thọ đưa hết tay em của mình vào những chức vụ quan trọng
trong đảng và chính quyền:
Nguyễn văn Linh, người
từng là tay em của Thọ trong thời gian ở Trung ương Cục miền Nam, nay lên làm
Tổng bí thư. Đây là một con người vô nhân cách, không có lập trường chính trị
rõ ràng, gió chiều nào theo chiều ấy, hoàn toàn bị khống chế bởi họ Lê, mặc dầu
đảng cộng sản đã đánh bóng con người này, cho rằng đây là con người
« Nói và Làm « , vì ông có viết báo, lấy bút hiệu là N.V.L., ở báo
Nhân dân; hay đây là một con người sáng suốt, bằng cả trăm cả ngàn ngọn nến
không kém gì Lê Duẫn.
Chúng ta thấy lúc đầu thì Linh chủ trương « Đổi mới
«, nhưng sau đó lại đàn áp những nhà đối lập không khác chi thời trước. Điều
đáng buồn cho Việt Nam là trong thời gian Hội nghị Thành Đô, thì chính con
người vô nhân cách, không có lập trường chính trị này làm Tổng bí thư.
Về đảng thì đã là vậy,
về chính quyền thì cũng là toàn tay em của Thọ, từ Đỗ Mười làm Thủ tướng, nhưng
trước đó, vào thời chiến tranh chống Pháp, là Ủy viên ám sát của đảng ở vùng tả
ngạn sông Hồng, gồm một phần Hà Đông, Nam định, Thái bình và Ninh bình, cũng là
tay em của Thọ. Thêm vào đó em ruột của Lê đức Thọ là Mai chí Thọ ( cộng sản
thay tên đổi họ) làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, công an. Lê đức Anh, người dưới quyền
của Thọ ở miền nam, được Thọ cất nhắc lên chức Đại tướng, Tư lệnh đoàn quân
sang xâm chiến Căm Bốt, được làm Bộ trưởng Bộ quốc Phòng; ngay cả Nguyễn cơ
Thạch, Bộ trưởng Bộ ngoại giao, là người trong Phái đoàn thương thuyết về Hiệp
định Paris 1973, mà Lê đức Thọ là cố vấn, nhưng là người nắm thực quyền.
Lê đức Anh là một anh
cai phu đồn điền, mà người dân kêu là « Anh chột «, là một người ác ôn
không kém Thọ, vì đánh phu đồn điền, nên bị nghỉ việc, sau đó theo cộng sản. Vì
là đặc trách tổ chức nhân sự của đảng, nên Thọ nắm được hồ sơ này, nhưng giữ
kín, để làm một con bài sau này để dễ bề khống chế. Việc này, những người am
tường tình hình đảng cộng sản Việt nam đều biết.
Cũng về đảng, chính
những người cộng sản cao cấp và gần Lê đức Thọ, ai cũng rõ ông này có ba biệt
hiệu: « Anh Sáu búa «, « Anh Sáu Tú bà « và « Anh Sáu hèn. « Anh
sáu búa vì Lê đức Thọ chủ trương dùng búa để đập đầu, giết người thay vì dùng
súng đạn. Anh Sáu tú bà vì trong thời gian nắm Trung ương Cục miền Nam sau Lê
Duẫn, thì nhiệm vụ chính của Thọ là kiếm gái miền Nam gửi ra miền Bắc để cống
hiến cho Bác (tức Hồ chí Minh) và cho Đảng ( tức các ông lớn trong Bộ Chính trị
và Trung ương đảng). Anh Sáu hèn vì khi « Chiến thắng miền nam « thì
hãnh tiến, vác mặt lên trời, đã ra lệnh trục xuất Đại sứ Pháp, ông Mérillon lúc
bấy giờ, ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiến đồng hồ. Sau đó, khi cần, thì sang
qụy lụy Pháp, xin Pháp giúp đỡ, viện trợ, đi chữa bệnh, nằm ở nhà thương quân
sự của Pháp Val de Grace lúc cuối đời.
Người xưa có câu: « Ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã « ( Trâu thì đi với trâu, ngựa thì đi tìm ngựa), ngay cả
Tây phương cũng có câu: « Dis - moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es «
( Hãy nói cho tôi người anh lui tới, tôi sẽ nói anh là người thế nào.)
Con người Lê đức Thọ là
con người vừa hèn, vừa ác ôn côn đồ, thủ đoạn « Mày theo tao thì mày có
tất, nếu không thì tao sẽ giết mày «, vì vậy những tay em của hắn, từ Nguyễn
văn Linh, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Mai chí Thọ, và hôm nay còn một người cháu của
ông ta là Lê hồng Anh, vừa mới sang Tàu qụy lụy Tập cận Bình, những con người
này mang tất cả những tật xấu của Lê đức Thọ, cũng hèn nhát, ác ôn côn đồ, qụy
lụy ngoại bang, tinh thần gia tộc, bè phái, không coi thể diện quốc gia, quyền
lợi dân tộc ra gì.
Người ta có thể nói từ
ngày Lê Duẫn chết tới nay, Việt Nam bị khống chế bởi gia tộc họ Lê, con cháu và
tay em. Những vụ ám sát, thủ tiêu như vụ của tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn,
mà vợ con phải than lên: « Chồng và bố tôi bị người ta đầu độc chết v.v… « ,
tất cả xa gần đều liên quan đến gia tộc này và những tay chân, bộ hạ của nó.
Thực ra thi Lê đức Thọ
họ Phan, tên thực là Phan đình Khải, người Nam định, có trình độ tiểu học, thời
đó gọi là bằng Cao đẳng tiểu học, được Pháp lập ra, vào lúc đầu khi đã ổn định
chế độ thuộc địa. Những người có cấp bằng này hoặc đi về làng dạy học, như Trần
Phú, Tổng bí thư đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam, mà người ta thường gọi là
« Ông giáo Phú «, hay Nguyễn thị Minh Khai, cũng được gọi là « Cô giáo
Khai «, và ngay cả Hồ chí Minh cũng đã từng làm ông giáo làng ở Phan Thiết;
những người khác thì đi làm hỏa xa, tức sóat vé trên tàu xe lửa, trường hợp của
Lê đức Thọ.
Lê đức Thọ còn 2 người em,
làm tướng, trước và ngay cả sau năm 1975, nhất là từ khi Lê đức Thọ nắm thực
quyền sau khi Lê Duẫn chết. Đó là Mai chí Thọ, tên thật là Phan đình Đống, làm
đến chức vụ Bộ trưởng Bộ công an. Một người khác tên Đinh đức Thiện, tên thật
là Phan đình Dinh, đặc trách về việc tiếp vận hậu cần, tương đương với Bộ
trưởng Bộ Tiếp tế Lương thực. Có nguồn tin cho rằng Lê hồng Anh, đương kim Bộ
Trưởng bộ Công An, đặc trách về Ban bí thư đảng ngày hôm nay, là con của Đinh
đức Thiện. Nguồn tin này không phải không có lý.
Một nguồn tin khác cho rằng
ngay cả Nguyễn tấn Dũng, đương kim Thủ tướng hiện nay là con rơi của Mai chí
Thọ, trong thời gian hoạt động ở miền Nam, sau đó đã ra ngoài Bắc, để lại cho
Võ văn Kiệt làm con nuôi. Chính vì vậy, trong thời gian Võ văn Kiệt làm Thủ
tướng, Mai chí Thọ làm Bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn tấn Dũng đã lên như diều.
Tất cả những người con
cháu, tay em của Thọ đều là những người giống Thọ, đầu óc gia tộc, bè phái rất
lớn, sẵn sàng làm bất cứ giá nào để bảo vệ quyền lợi gia tộc và bè phái, dầu hèn
hạ, qụy lụy ngoại bang hay ác ôn côn đồ.
Ngày hôm nay, cộng sản
vẫn còn nắm quyền, gia đình họ Lê vẫn khống chế, sự thật vẫn bị che dấu, nhưng
rồi trong tương lai sự thật sẽ được phơi bày. Như trường hợp Staline ra lệnh
giết 20 000 sĩ quan Ba Lan là do Gorbatchev tiết lộ bí mật; gia đình Nga
hoàng Nicolas 2 bị giết hại bởi Lénine là do Boris Eltsine không những cho mọi
người biết mà còn tổ chức an táng trọng thể.
Thực ra trước khi Lê
Duẫn chết, cộng sản Việt Nam cũng biết rõ Liên sô không còn là chỗ tựa vững
chắc nữa, không còn là thanh trì cách mạng, « là ngày mai tươi sáng của
Việt nam «, nhất là khi Tchernenko chết, tất cả những Tổng bí thư của những
đảng cộng sản đều phải sang để dự tang, Gorbatchev nói thẳng với mọi người có
mặt rằng: « Liên sô không thể giúp đỡ được nữa. Hiện nay muốn có hàng hóa
của Liên sô thì phải mua và trả bằng ngoại tệ hay trao đổi hàng hóa. »
Chính vì vậy mà cộng sản
Việt Nam đã chạy đôn chạy đáo, không còn sĩ diện quốc gia, dân tộc, đi van lạy
các cường quốc.
Lúc đầu là với Mỹ. Ngoại
trưởng Việt Nam nhiều lần sang Hoa kỳ, ban đầu thì còn lên giá, làm cao, tuyên
bố: « Hoa kỳ muốn tái lập bang giao với Việt nam thì phải bồi thường chiến
tranh. », sau đó xuống nước, không nói gì đến bồi thường chiến tranh, và
tuyên bố: « Nếu Hoa kỳ muốn tái lập bang giao với Việt Nam, thì Việt nam
sẵn sàng giành mọi ưu tiên cho Hoa kỳ, ngay cả việc Hoa kỳ muốn đặt tòa Đại sứ
hay Tổng lãnh sự, ở đâu, Việt nam cũng đều đồng ý. »
Tuy nhiên giữa cán cân
Trung cộng và Việt Nam, Hoa kỳ chọn Trung cộng chứ không chọn Việt Nam. Chúng
ta phải nhớ là vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, tình hình giữa Việt
Nam và Trung cộng rất căng thẳng. Hoa kỳ muốn đi với Trung cộng để chỉa mũi dùi
vào Liên sô, đánh sập Liên sô. Và cộng sản Việt nam lại là tay em trung thành
của nước này.
Muốn đi theo Hoa kỳ
không xong, cộng sản Việt nam quay sang tìm sự giúp đỡ của Pháp vào những năm
1988-1989, lúc này là lúc Tổng thống Pháp F. Mittérand vừa mới tái đắc cử. Tuy
nhiên khả năng tài chính của Pháp hạn hẹp, thêm vào đó Pháp đòi hỏi phải dân
chủ hóa chế độ, vì lúc này là lúc những phong trào dân chủ và những cuộc cách
mạng dân chủ đã xẩy ra ở Đông Âu, nên việc không thành.
Việc Lê đức Thọ sang
chữa bệnh ở Pháp năm 1988, vừa mang ý nghĩa chữa bệnh, vừa mang ý nghĩa chính
trị.
Cộng sản Việt nam không
còn con đường nào là hèn hạ, muối mặt, sang qụy lụy Trung cộng, mặc dầu trước
đó đã lên tiếng chửi rủa Trung cộng không còn tiếng xấu nào mà không dùng, nào
là « Chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh «, « Kẻ thù liền đất, liền trời
« v.v…
Ai cũng biết người đứng
sau nền chính trị Việt Nam và tất nhiên sau Hội nghị Thành đô là Lê đức Thọ,
Phái đoàn Việt Nam gồm có Nguyễn văn Linh, đương kim Tổng bí thư, Đỗ Mười,
đương kim Thủ tướng, Phạm văn Đồng, cựu Thủ tướng, cố vấn Phái đoàn. Phía bên
Trung cộng, người đứng ngầm đằng sau là Đặng tiểu Bình, Phái đoàn gồm có Giang
trặch Dân, đương kim Tổng bí thư, Lý Bằng, đương kim Thủ tướng.
Phía Việt Nam thì Lê đức
Thọ bệnh nặng, chúng ta nên nhớ là Hội nghị Thành đô họp 2 ngày 3 và 4 tháng
9/1990, tất nhiên có những trao đổi trước đó cả tháng nếu không cả năm, thì chỉ
hơn một tháng sau Lê đức Thọ chết vào ngày 13/10/1990.
Phía Việt nam nghĩ rằng
có Phạm văn Đồng để cân xứng với Đặng tiểu Bình, nhưng đã lầm. Họ Phạm chỉ là
một con người thừa hành, không có nhìn xa trông rộng, bằng chứng là đã ký công
hàm bán nước năm 1958, thêm vào đó, đây là một con người cũng vô cùng hèn hạ,
nhưng lại đạo đức giả và giỏi đóng kịch, giống như Hồ chí Minh, nên đã được
người cộng sản khen ngợi rằng Phạm văn Đồng là học trò trung thành của Bác. Con
người đạo đức giả này, sau khi họp Thành Đô về còn tỏ ra hối hận.
Về phía Trung cộng,
chúng ta thấy Đặng tiểu Bình, một người lên voi xuống chó, ở chính trường quốc
nội cũng như hải ngoại, là một con chó sói già trước một đàn cừu non Việt
Nam. Con người này chỉ dùng lý thuyết cộng sản như một phương tiện để phục vụ
cứu cánh của mình là chủ nghĩa bành trướng đại Hán, « Mèo trắng, mèo đen
không quan trọng, miễn là nó bắt được chuột. » Trong khi đó thì cộng sản
Việt nam vẫn « Đánh Mỹ để xây dựng xã hội chủ nghĩa «. Chính vì vậy mà ông
Nixon đã nói: « Trung cộng chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. »
Đó
là sơ qua diễn tiến tình hình chính trị, trước khi đi đến hội nghị Thành đô
1990, về phía Việt Nam. Nhưng về phía Trung cộng thì như thế nào ?
I I I ) Tình hình
Trung cộng trước Hội nghị Thành đô
Tình hình Trung cộng gần
kề nhất ngày Hội nghị Thành đô là biến cố Thiên An môn 1989. Đây là một biến cố
lớn trong lịch sử cận đại của Trung cộng và của đảng Cộng sản Tàu.
Những cuộc biểu tình ở
nhiều thành phố và nhất là ở Bắc kinh, tại quảng trường Thiên an môn, từ ngày
15/4 tới ngày 4/6/1989, đã huy động cả triệu người đủ mọi tầng lớp, từ nông
dân, công nhân đến sinh viên học sinh, công chức và có cả quân đội, đòi tự do
hóa chế độ, chống tham nhũng, cửa quyền, con ông cháu cha của đảng Cộng sản.
Phe cải cách lúc đó tiêu biểu là Tổng bí thư Triệu tử Dương, phe bảo thủ tiêu
biểu là Thủ tướng lý Bằng. Lập trường của Đặng tiểu Bình vào lúc đầu có vẻ ngả
về phe cải cách, sau đó lừng khừng đứng giữa, cuối cùng đã ngả về phe bảo thủ,
khi cuộc biểu tình đã không tự kiểm soát nổi, có những phần tử đã lợi dụng căng
những biểu ngữ chống họ Đặng.
Đấy là chưa nói hình ảnh sinh viên học sinh đã
làm quá đà trong thời kỳ Cách mạng Hồng vệ Binh (1964 -1974), đưa bố mẹ,
thầy cô ra đấu tố, đưa đến cảnh một người con trai của Đặng tiểu Bình, khi vệ
binh đỏ đến phòng cư xá sinh viên, đã sợ quá, nhảy từ lầu cao xuống đất, gãy
xương sống, suốt đời phải đi xe lăn; một biến cố nữa, đó là vợ chồng ông Chu ân
Lai, đương kim Thủ tướng và vợ ông ta, bà Đặng vĩnh Siêu, một cán bộ lâu năm và
rất ảnh hưởng trong Đảng cộng sản lúc bấy giờ, có một người con gái nuôi, dạy
nhảy múa ở nhà hát Bắc kinh, bị đưa đi trại học tập, do chính sắc lệnh của Chu
ân Lai, sau đó những người Vệ binh thân Mao, đã lấy một cái đinh dài đóng vào
đầu cô ta, làm cho cô ta chết. Hình ảnh và hành động này ám ảnh không những bà
Đặng vĩnh Siêu, Đặng tiểu Bình, mà phần lớn giới lãnh đạo Trung cộng lúc bấy
giờ.
Vì vậy nên khi quyết
định « Dẹp hay không dẹp biểu tình «, thì phe bảo thủ đã thắng. Đưa đến
hậu quả làm cả ngàn người chết và cả chục ngàn người bị thương. Quyết định đàn
áp biểu tình có nhiều người chống đối, trong đó có Tổng bí Thư Triệu tử Dương,
Bộ trưởng quốc phòng, Tư lệnh quân đội Bắc kinh. Vì vậy nên phe bảo thủ phải
gọi những đoàn quân ở phía tây bắc, từ những vùng Tây tạng, Tân cương v.v… về
để dẹp biểu tình.
Biến cố Thiên an Môn
suýt nữa làm cho nước Tàu nổ tung, ít ra làm 2. Trước đó thì cách mạng Hồng vệ
binh đã đưa nước tàu vào cảnh nội chiến, có cơ bị chia ra làm nhiều mảnh.
Từ xưa tới nay, giới báo
chí, trí thức và ngay cả giới lãnh đạo tây phương có cái nhìn sai lạc về Tàu.
Đầu thế kỷ thứ 19, thì
Napoléon ví nước Tàu như một con hổ đang ngủ, nếu nó thức dậy sẽ làm rung
chuyển thế giới. Vào những năm 70, một nhà chính trị, kiêm văn sĩ Pháp, ông
Alain Peyrefitte, có viết quyển sách « Quand la Chine s’éveillera… « (1973),
( Khi nước Tàu sẽ tỉnh dậy… ). Không nói đâu xa, ngay ngày hôm nay, thế giới
Tây phương vẫn còn có những cái nhìn sai lầm về Tàu.
Trong khi đó, chính
những người Tàu, ngay cả một số giới lãnh đạo, thì ngược lại. Ông Chu dung Cơ,
cựu Thủ tướng Tàu, có nói: « Nước Tàu là một anh khổng lồ, chân bằng đất
xét. » Cũng một cựu Thủ tướng khác, ông Ôn gia Bảo, vào cuối năm 2012,
giai đoạn chuyển quyền giữa Hồ cẩm Đào và Tập cận Bình, thì tuyên bố: « Nước
tàu đang đi vào nguy hiểm của thời kỳ Cách mạng Hồng vệ binh. » Sự đấm đá
trong đảng, tranh quyền đoạt lợi hiện nay vẫn tiếp diễn.(1)
Tháng 7/2014, một cuộc
nghiên cứu, được công bố bởi Hurun Report, về việc tìm hiểu hành vi và thái độ
của những người giàu nhất Trung cộng, mà trong đó phần lớn là những gia đình
thuộc con ông cháu cha của những người lãnh đạo cao nhất, cho ta thấy: hơn 60%
những người được khảo sát thì đã ra nước ngoài hay đã nộp hồ sơ để ra nước
ngoài; 85% thì nói họ đã gửi con, người thân thích đến những trường đại học ở
ngoại quốc.( Ian Bremmer, «
China superpower or superbust, The National Interest Magazine, tháng 11 và 12/
2013).
Một chính quyền, một quốc gia có thể ví như một cái cây, những người của
chính quyền là những người ở dưới gốc cây, hưởng bóng mát của nó, nay tìm cách
gửi tiền hay gửi con ra nước ngoài chẳng khác nào đào đất ở gốc cây đổ đi chỗ
khác, thì cái cây sớm muộn cũng sẽ bị trốc gốc.
Trong chính trị, sự lầm lẫn về địch thủ, đối phương, ngay cả với bạn,
rất nguy hiểm, dẫn đến những hậu quả to lớn khó lường. Tuy nhiên đối với giới
lãnh đạo Tây phương, nó có quan trọng, nhưng không có tính cách sống còn, nguy
hiểm chết người, hại cả một dân tộc như đối với giới lãnh đạo cộng sản Việt
Nam.
Có thể nói giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, bắt đầu từ Hồ chí Minh cho
tới ngày nay, có một cái nhìn sai lầm về thế giới cộng sản, nhất là về Trung
cộng.
Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên do:
Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn ngay từ cuộc đời cá nhân của Hồ chí Minh.
Sau khi rời Việt nam, đi làm bồi cho một chiếc tàu Pháp, sống lang bạt kỳ hồ,
khổ sở ở New York, Luân đôn, rồi Paris, thiếu thốn khó khăn, được Đệ Tam quốc
tế lượm về nuôi nấng, huấn luyện, được sung sướng. Tất nhiên họ Hồ về cá nhân
thì coi tổ chức Đệ tam, nhưng thực tế là Liên sô, như « Cha mẹ «. Chúng ta
thấy, trong thời gian họ Hồ bị tổ chức này thất sủng, vào những năm cuối thập
niên 20, đầu 30, vì lúc đó có sự tranh quyền gay gắt giữa Staline và Trotski,
mà trước đó họ Hồ làm việc cho Borodine, người thân Trotski, họ Hồ đã bị thất
sủng, đã viết thư không biết bao nhiêu lần cho Đệ Tam, xin từng miếng cơm
đến tiền trả tiền hotel.
Chúng ta có thể thấy những bức thư này dễ dàng trong Tuyển
tập Hồ chí Minh, do chính đảng Cộng sản Việt nam xuất bản.
Rồi tình hình thế giới thay đổi, Phát xít Moussolini xuất hiện ở Ý
năm 1923, ở Đức năm 1933 với Hitler, Đệ tam quốc tế họp kỳ cuối cùng năm 1936,
trước khi bị Staline giải tán, đã quyết định thay đổi chiến lược, từ « Đấu
tranh giai cấp « sang « Hợp tác giai cấp để chống Phát xít « ,
họ Hồ được dùng lại, và đã cùng phái đoàn cộng sản Tàu, trở về Tàu vào khoảng
năm 1938 nhằm sửa sọan cướp chính quyền.
Sau khi cướp được chính quyền thì nay chạy sang Tàu lạy lục xin viện
trợ, mai chạy sang Liên sô để xin giúp đỡ.
Ngày hôm nay Cộng sản Việt Nam tâng bốc họ Hồ, đưa ra « Tư
tưởng Hồ chí Minh «, nhưng chính ông đã tuyên bố: « Tôi không có tư tưởng gì
cả. Tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. Những con người này không
bao giờ sai lầm. »
Một con người không có tư tưởng, mà vì hoàn cảnh cứ phải đi xin cầu
viện, lúc trẻ thì cho bản thân, lúc lớn thì cho tổ chức, con người này bản chất
đã trở thành qụy lụy ngoại bang. Bản chất này đã ăn sâu vào xương tủy của con
cháu Hồ tức những lãnh đạo cộng sản Việt nam sau này. Lê Duẫn, người kế vị trực
tiếp Hồ, thì thản nhiên tuyên bố :
« Chúng tôi đánh đây là đánh cho Liên sô và Trung cộng.» không
ngần ngại hy sinh từ thế hệ này đến thế hệ khác để phục vụ lý tưởng
cộng sản, nhưng thực tế là phục vụ Nga, Tàu.
Con cháu của Hồ chí Minh và Lê Duẫn ngày hôm nay, sau Hội nghị Thành đô
năm 1990, đã sẵn sàng chấp ngận khẩu hiệu « Bốn Tốt và Mười sáu Chữ vàng
«, đưa ra bởi Giang trạch Dân, nhưng thực tế là dâng đất, nhượng biển, thần
phục ngoại bang như cha anh cộng sản Hồ Lê trước đây.
Nguyên nhân gần, đó là thế giới cộng sản Đông Âu, trong đó có Liên sô,
« thành trì cách mạng, chỗ tựa vững chắc » của cộng sản Việt Nam từ
từ sụp đổ từng mảng một, mà người chứng kiến tận mắt đó là Nguyễn văn Linh, lúc
đó là đương kim Tổng bí thư, Trưởng Phái đoàn của Việt nam tại Hội nghị Thành
đô.
Từ tháng 9/1989, cả ngàn người Đức, bỏ Đông Đức sang xin tỵ nạn ở Tây
Đức.Tháng 10/1989, Honnecker từ chức Chủ tịch đảng Cộng sản Đông Đức. Tháng
11/1989, bức tường Bá Linh, ngăn cách hai nước Đông và Tây Đức, hai thế giới
cộng sản và tư bản, sụp đổ. Tiếp theo đó là Tổng bí
thư Todor Zhivkov của đảng cộng sản Bulgarie, rồi Tổng bí thư Milos Jakes của
đảng cộng sản Tiệp khắc cũng từ chức.
Tháng 12/1989, cuộc cách
mạng dân chủ ở Roumanie bùng nổ, vợ chồng nhà độc tài cộng sản Ceausescu, bị hạ
bệ, rồi bị tử hình.
Những tình hình đó đã
ảnh hưởng và ám ảnh sâu đậm đến giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Đấy là chưa
nói đến sự kiện là giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đến Hội nghị Thành đô còn
mang đầy « mặc cảm tội lỗi » với đàn anh Trung cộng, vì sau khi Trung cộng
« dạy cho cộng sản Việt nam một bài học », như lời tuyên bố của Đặng tiểu
Bình, sau khi viếng thăm Hoa kỳ vào năm 1979, chiến tranh Việt Trung vẫn tiếp
diễn ở biên giới và ở ngoài khơi.
Năm 1988, Trung cộng đánh Trường sa của Việt
Nam, chiếm đảo Gạc ma, mà hiện nay Trung cộng đang thành lập một căn cứ quân sự
với những phi đạo cho máy bay, và những cứ điểm để khai thác dầu hỏa, mà cộng
sản Việt Nam cứ im thin thít.
Chiến tranh tại biên
giới Việt Hoa kéo dài đến tận 1987, 3 năm trước Hội nghị Thành đô. Theo một số
quan sát viên, ngoài những sự đụng độ nhỏ, có 6 trận đánh lớn, vào tháng
7/1980; tháng 5/81; 4/83; 6/85; 12/86; 1/87.
Từ bản chất lệ thuộc
ngoại bang, đến mặc cảm « tội lỗi « , cộng thêm với những cái nhìn « ếch
ngồi đáy giếng « chỉ biết có Liên sô, nay thế giới Liên sô từ từ sụp đổ,
Phái đoàn cộng sản Việt Nam dự hội nghị Thành đô với một tư thế kém cỏi, như
những « con cừu non « , trước một phái đoàn, mà đứng đằng sau là Đặng
tiểu Bình, một con cáo già, gian manh, xảo quyệt ở mức độ quốc tế, với một tham
vọng và ý chí mãnh liệt bành trướng chủ nghĩa « Đại Hán ». Tất nhiên
những con cừu non đó bị con cáo già ăn thịt là lẽ thường tình.
IV ) Diễn tiến của
Hội nghị Thành đô ( Hình thức và nội dung)
Thực ra, về nội dung của
văn bản Hiệp ước Hội nghị Thành đô, cho tới ngày hôm nay, một cách chính thức,
chưa có ai rõ. Người ta chỉ phỏng đoán qua những việc làm của Cộng sản Tàu và
Việt nam, từ ngày có Hội nghị này cho tới nay.
Chính thức và để có giá
trị trên mặt công pháp quốc tế, thì bất cứ hiệp ước quốc tế nào, nhất là liên
quan đến biên giới trên đất liền hay trên biển, giữa hai hay nhiều quốc gia,
thì phải có sự trong sáng: có nghĩa là phải được công bố, phải có sự phê chuẩn
của quốc hội hay sự chấp nhận của dân qua trưng cầu dân ý và bản hiệp ước đó
phải gửi tới cơ quan lưu trữ hồ sơ của Liên hiệp quốc. Về Hiệp ước Thành đô cả
Trung cộng và Cộng sản Việt nam không hành xử theo kiểu này, mà hành xử lén la,
lén lút, có tính cách mờ ám chứ không minh bạch, theo cách hành xử của những
nước tự do, dân chủ.
Kinh nghiệm cho chúng ta
thấy là Công Hàm của Phạm văn Đồng năm 1958. Về phía cộng sản Việt Nam thì dấu
diếm dân, về phía Trung cộng thì lập lờ đánh lận con đen qua việc yêu cầu Việt
nam tôn trọng quyền lãnh hải 12 hải lý, rồi công bố bản đồ của Trung cộng,
trong đó có Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam.
Thực ra thì không riêng
gì Trung cộng và Cộng sản Việt Nam hành động lén lút, dấu dân, mà có thể nói
tất cả những chế độ cộng sản, từ chế độ đầu tiên do Lénine thành lập năm 1917.
Lénine, để có được chính
quyền, không ngần ngại tuyên bố là sẵn sàng nhượng đất cho Đức, sau đó có cử
Trotski đi ký Hiệp ước nhượng đất ở Brest – Listovk, năm 1918, với Đức. Hiệp
ước này ít người được biết, trong khi đó dân thì mù tịt. Ngay cả việc Lénine
giết toàn gia đình Hoàng gia Nga Nicolas 2, ngày hôm nay người ta cũng không
tìm ra một sắc lệnh nào của Lénine, ngoài việc Lénine cử một tay em thân cận,
ngày xưa là một chủ ngục và được Lénine thường nói với mọi người rằng đây« là
người giỏi nhất trong những người chúng ta «, có nghĩa là dám giết người, dám
thủ tiêu, xuống chỗ ở của gia đình hoàng gia, rồi một đêm nọ, cùng với mười mấy
người có súng, kêu gia đình xuống một cái hầm, đọc một bản án và giết cả gia
đình.
Hành động hận thù, lén
lút giết người không gớm tay, đó là hành động của giới lãnh đạo cộng sản.
Lê đức Thọ của Việt Nam,
thì tuyên bố: « Mài hận thù để làm bén nhọn đấu tranh. » Em của hắn,
Mai chí Thọ, vào năm 1981, lúc này là thế giới cộng sản đã bắt đầu xuống dốc,
thì trân tráo, vô liêm sỉ, tuyên bố trước một số trí thức miềm Nam phải « đi
học tập cải tạo « :
« Hồ chí Minh có
thể là một kẻ độc ác; Nixon có thể là một người vĩ đại, người Mỹ có thể đã có
chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại, bởi vì chúng
tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ chí Minh là một người vĩ đại và Nixon
là một kẻ giết người, người Mỹ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt đó là
kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. Chỉ có chủ nghĩa Marx – Lénine là
làm được điều đó. Không ai trong các anh (chỉ những người trí thức miền nam bị
đi học tập cải tạo) thấy sự kháng cự đối với chế độ của những người cộng sản,
vì vậy đừng suy nghĩ về chuyện đó. Quên chuyện đó đi. » ( Mai chí Thọ -
theo lời của Đoàn văn Toại, trong A Lament for Việt Nam – New York Times
Magazine – 29/03/1981).
Chế độ Marx-Lénine mà
Mai chí Thọ nói tới không gì hơn là cai trị dân bằng cái loa, cái còng và cái
súng. Cái loa là bưng bít thông tin, che dấu sự thật, rồi dùng cái loa để nói
dối dân. Cái còng và cái súng là dọa dân, nếu ai không theo tao thì bỏ tù, hay
thủ tiêu.
Tuy nhiên cách cai trị
đó đã quá lỗi thời. Thế giới cộng sản Đông Âu sụp đổ, một phần cũng vì lý do
đó. Ngày hôm nay những chế độ cộng sản còn lại, với nền văn minh trí thức điện toán,
thông tin dễ dàng với những internet, điện thoại cầm tay, đang trên đà sụp đỗ
cũng là vì vậy.
Trở về Hội nghị Thành
đô, vì không có bản Hiệp ước ký kết giữa 2 bên được công bố chính thức, nên
người ta chỉ phỏng đoán dựa vào quyển Nhật ký của Trần quang Cơ, Thứ trưởng Bộ
ngoại giao, lời tuyên bố của Nguyễn cơ Thạch, lúc đầu; sau đó là tài liệu của Weakileaks,
Hoàn cầu thời báo cùng một số báo chí khác.
Về Nhật ký của Trần
quang Cơ, phần rõ ràng là phần nói về vụ giải quyết tình hình Cam bốt: Cộng sản
Việt Nam rút quân khỏi nước này, thành lập Hội đồng Hòa giải dân tộc dưới sự
lãnh đạo của ông cựu hoàng Sihanouk. Chính ở điểm này, Trung cộng có nhượng bộ.
Đó là Trung cộng đòi phải sự có mặt của phe Polpot, nhưng kết cục thì không có.
Trần quang Cơ có nói đến những buổi thương thuyết trước Hội nghị, có nói đến
phía Việt Nam đề nghị phía Trung cộng đứng ra lãnh đạo khối cộng sản còn lại,
nhưng không nói rõ đề nghị này là thế nào. Có phải để Trung cộng lãnh đạo rồi
Việt Nam nhận làm một tỉnh của Trung cộng không ? Điều này không thấy
trong nhật ký. Người ta chỉ thấy trong một vài tờ báo nói rằng đó là tiết lộ
trong 3 100 bức điện thư lưu trữ ở Bộ Ngoại giao Hoa kỳ. Vấn đề kiểm chứng
thật khó khăn, ngay với cả một số người thông thạo tin tức.
Trong khi đó thì Nguyễn
cơ Thạch, cấp trên, là Bộ trưởng Ngoại giao, không viết nhật ký, không được dự
Hội nghị Thành đô, vì Trung cộng không muốn, lại tuyên bố: « Hội nghị
Thành đô bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc nguy hiểm và lâu dài. »
Có người cho rằng để
biết nội dung của bản Hiệp ước Thành đô thì chúng ta chỉ cần xét đến hình thức
và hậu quả của nó.
Thực vậy, nếu nói về
hình thức thì đây là một hội nghị quốc tế vô cùng nhục nhã đối với Cộng sản
Việt nam. Theo thông lệ, một hội nghị ở mức độ cao như vậy thì phải họp ở thủ
đô, nay lại họp ở một thủ phủ một tỉnh bậc trung là Tứ xuyên. Họp 2 ngày mồng 3
và mồng 4 tháng 9, Phái đoàn Việt Nam phải có mặt trước ngày mồng 2 tại Thành
đô, đúng vào ngày Quốc khánh cộng sản Việt nam. Ép cộng sản Việt nam làm điều
này, Trung cộng muốn nói là Trung cộng không coi Việt nam là một nước độc lập.
Thêm vào đó, phái đoàn Việt Nam phải đi đường bộ để sang họp.
Đặng tiểu Bình dụ
để phía Việt Nam chấp nhận họp, đã hứa xuống gặp phái đoàn, nhưng sau đó không
xuống gặp và còn tuyên bố khinh bỉ Cộng sản Việt nam: « Tôi không thèm
gặp những phường ăn cháo, đái bát. »
Ngày xưa Mặc đăng Dung,
Lê chiêu Thống qụy lụy Tàu để giữ ngôi báu, nhưng cũng không đến nỗi hèn mạt
như vậy.
Những hành động của cộng
sản Việt Nam sau Hội nghị Thành đô :
Mặc dầu người ta không
biết chính thức nội dung của Hiệp ước Thành Đô, vì cả 2 bên Trung cộng và Cộng
sản Việt nam không công bố chính thức nội dung của hiệp ước này. Nhưng những
hành động của Cộng sản Việt nam từ ngày có Hội nghị tới nay quả là hành động
bán nước. Bởi lẽ đó có người cho rằng nội dung của Hiệp ước là bán nước cũng
không phải là không có lý.
Thật vậy, từ ngày 3 và 4
tháng 9 năm 1990 tới nay, những hành động của Cộng sản Việt nam chứng tỏ càng
ngày càng đưa Việt nam vào vòng kiềm tỏa, lệ thuộc Trung cộng về kinh tế, chính
trị quốc nội và hải ngoại. Người ta còn nhớ, sau Hội nghị không lâu, Giang
trạch Dân đến viếng thăm Việt nam, không đến Hà nội, thủ đô, mà tới Đà nẵng tắm
biển, rồi gọi giới lãnh đạo Cộng sản Việt nam tới « chầủ «, kiểu như
ngày xưa chầu Thiên hoàng.
Năm 1997, Cộng sản Việt
nam muốn gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế, nhưng Trung cộng không muốn, nên
phải từ chối.
Hai Hiệp định năm 1999,
về vấn đề biên giới và năm 2 000 về lãnh hải, mà cộng sản đã ký với Trung
cộng, dâng cho Trung cộng cả ngàn cây số vuông về lãnh thổ trong đó có thác Bản
dốc và Ải Nam quan, cùng cả 20 000 cây số vuông về lãnh hải.
Tiếp theo đó là những
hiệp ước nhượng cho Trung cộng khai thác bô xít ở vùng cao nguyên Trung phần,
xương sống chiến lược của Việt nam, rồi nhượng những vùng rừng ở biên giới cùng
cho phép Trung cộng lập những khu tự trị ở Việt Nam.
Gần đây Trung cộng đặt
giàn khoan dầu HD 981 ở trong thềm lục địa Việt nam, cả thế giới trông đợi phản
ứng mạnh mẽ của giới lãnh đạo cộng sản Việt nam, nhưng ngoài một vài lời tuyên
bố cứng rắn, sau đó đâu lại hoàn đấy, đó là Cộng sản Hà nội vẫn tiếp tục quỵ
lụy Trung cộng, làm cho cả thế giới thất vọng.
Đó là về chính trị, còn
về kinh tế thì ngay dù người dân bình thường cũng nhìn thấy rõ là nền kinh tế
Việt nam hiện nay hoàn toàn lệ thuộc Trung cộng. Việt nam chỉ là một cửa tiệm
để Trung cộng thuồn những hàng ô nhiễm, mang độc hại, những hàng giả, bị tẩy
chay, sang mang nhãn hiệu Việt Nam để bán trên thế giới.
Nhìn lại quá khứ, suy
xét hiện tại, để chẩn đoán tương lai :
Trong những chế độ cộng
sản, những giới lãnh đạo cộng sản, không có một chế độ nào, giới lãnh đạo nào
mà lại ngây thơ, ngu muội, nhưng lại nghĩ mình là « Đỉnh cao trí tuệ của
loài người tiến bộ « như cộng sản Việt nam. Ngày xưa thì Hồ chí Minh tuyên bố:
« Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ
hộ. »
Lê Duẫn thì nói: « Chúng
tôi đánh đây là đánh cho Liên sô và Trung cộng.» Ngày nay, sự ngây thơ và ngu
muội đó được biểu hiện qua Hội nghị Thành đô.
Thực ra sự ngây thơ và ngu muội không phải chỉ ở giới lãnh đạo mà ngay ở
một số trí thức cộng sản. Đã từ lâu cộng sản Liên sô và Trung cộng đã dùng chủ
nghĩa cộng sản như một phương tiện cho mộng xâm chiếm, bành trướng của mình,
trong khi đó, giới trí thức cộng sản Việt nam vẫn nghĩ:« Bên ni biên giới
là mình Bên kia biên giới cũng tình quê hương …»
Ngày hôm nay, có người cho rằng một số trẻ Việt Nam mất định hướng, vọng
ngoại, đến nỗi “ Lên sân khấu để hôn cái ghế ngồi của một tài tử Nam Hàn.”
Nhưng họ quên ngày xưa có một số trí thức cộng sản làm những bài thơ ca tụng
Lénine, Staline: “ Hôn cho anh nền tảng đá công trường, nơi vĩ đại Lénine
thường dạo bước “, hay: “Ôi ông Staline, ông mất, đất trời biết không. Thương
cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một, thương ông, thương mười.”
Ngày xưa “ hôn chân Lénine, Staline”, ngày hôm nay một số giới trè “ hôn
đít “ một tài tử ngoại quốc, ngẫm đi ngẫm lại, mặc dầu là 2 hành động khác
nhau, nhưng mang cùng một bản chất.
Hiện nay, nhiều người bàn tán về đề tài “ Thoát Trung “, nhưng họ quên rằng
điều kiện đầu tiên, ắt có và đủ, để “Thoát Trung”, đó là “ Thoát cộng”.
Ngày nào còn chế độ cộng sản, miệng thì hô hào yêu nước, nhưng trên thực tế
thì bán nước. Ngày đó không thể thoát Trung, mà trên thực tế là càng ngày càng
bị lún xâu vào vòng kiềm tỏa của Trung cộng.
Ngày nào còn đảng cộng sản độc quyền “ yêu nước “, độc quyền cai trị dân,
không cho dân cất tiếng nói, miệng thì hô hào xã hội chủ nghĩa, công bằng xã
hội, nhưng trên thực tế là cướp nhà cửa, ruộng vườn, tài sản của dân, để trao
vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ, làm cho xã hội trở nên vô cùng bất công,
ngày đó những hành động như Hội nghị Thành đô còn tái diễn, không những không
thể thoát Trung, mà dân Việt còn không thể ngóc đầu lên được, để phát triển, để
theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.
Paris ngày 09/10/2014
Chu chi Nam và Vũ văn Lâm
CHÍNH TRỊ LÀ GÌ, THÁI ĐỘ CHÍNH TRỊ VÀ
LÀM CHÍNH TRỊ KHÁC NHAU Ở CHỖ NÀO ?
Cách đây gần 2400
năm, nhà triết học Hy lạp Aristote ( 384-322 trước Tây lịch) đã nói : « Con
người là một con vật chính trị. » Để đối phó hữu hiệu với thiên nhiên, với thú
rừng,con người đã tự qui tụ lại,sống hợp đoàn, và để cho cuộc sống hợp đoàn mỗi
ngày một tốt đẹp hơn; con người cần phải ứng xử với nhau mỗi ngày một tốt đẹp,
có văn hóa, văn minh hơn; và đồng thời tạo ra những luật lệ, cơ chế để cho
những quyền căn bản của con người mỗi ngày một bảo đảm hơn ; đó là chính trị.
Theo như
Lời mở đầu của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân quyền :
« Xét rằng sự xao
nhãng và trà đạp những quyền căn bản của con người là những hành động man dại,
đi ngược lại lương tâm và lương tri của nhân loại ; và một thế giới mà trong
đó, mọi người đều có quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, không bị đe dọa bởi
nghèo đói, thế giới đó phải được coi như ước vọng cao cả của nhân loại. »
« Xét rằng quả là
một điều cần thiết để những quyền tự do căn bản của con người phải được bảo đảm
bởi một nhà nước pháp quyền, để con người không bị áP bức, bóc lột ; trong
trường hợp ngược lại, thì con người có quyền nổi lên chống lại độc tài, áp bức
và bóc lột. »
Cách hành
xử đúng, những luật lệ, những cơ chế giúp cho đời sống con người thăng tiến về
cả 2 phương diện vật chất và tinh thần, tất cả những việc đó đều liên quan đến
chính trị. Vì vậy nên Aristote mớI nói con người là con vật chính trị.
Cũng có
người cho rằng ở những xã hội nguyên thủy, không có chính trị, vì ở những xã
hội này, không có những hình thức chính quyền, tổ chức nhân xã như chúng ta
thấy ngày hôm nay. Nhưng nếu chúng ta hiểu chính trị là hình thức ứng xử tốt
đẹp giữa con người và con người, thì ngay dù dưới bất cứ một xã hội nào, bắt
đầu bằng xã hội 2 người là gia đình lúc ban đầu, thì cũng đã có chính trị.
Chính trị,
theo ngữ học gồm 2 chữ : chính và trị. Chính có nghĩa là ngay thẳng. Trị là cai
trị. Chính trị là cai trị một cách ngay thẳng. Nhưng chính, ngay thẳng ở đây
theo nghĩa bóng còn có nghĩa là cái gì đạo đức, tốt đẹp, nhân đạo, liên quan đế
Chân, Thiện, Mỹ. Chân là sự thật, lòng yêu sự thật, tính tôn trọng sự thật,
trái lại với gian xảo, ăn gian nói dối, nói láo và tuyên truyền, như bản tính
của người cộng sản, mà chính ông Gorbatchev, cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Liên
Sô đã từng tuyên bó : « Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo. »
Thiện là tốt, là lòng thương người, giúp đỡ người, là lương tâm, lương tri,
trái lại cái gì là ác ôn, côn đồ, vô lương tâm, vô lương tri. Mỹ là cái đẹp,
cái được con người từ xưa tới nay thich và kính trọng, trái lại với cái gì xấu,
mọi người chán ghét, chê cười, phỉ nhổ.
Vì vậy, nguyên nghĩa ban
đầu chính trị có nghĩa là cách cai trị với mục đích là trọng sự thật, thực hiện
điều thiện và quảng bá điều mỹ, nói một cách khác đi là làm sao để đời sống của
ngưòi bị trị mỗi ngày một tốt đẹp hơn, về vật chất cũng như tinh thần ; về vật
chất thì người dân , tối thiểu, khi đói có cơm ăn, khi rét có áo mặc, khi bệnh
có thuốc uống; về tinh thần, thì những giá trị tinh thần mỗi ngày một được nâng
cao, những quyền căn bản của con người được tôn trọng, để đời sống con người
mỗi ngày một có văn hóa, văn minh, trái ngược với đời sống man dai, cầm thú,
đời sống của người cộng sản, như lời bà Dương thu Hương đã nói : » Tôi ở trong
một đoàn quân chiến thắng ; nhưng tôi phải đau lòng mà nói lên rằng kẻ chiến
thắng chính là kẻ man dại ; và ngược lại kẻ chiến bại chính là kẻ văn minh ».
Cũng như nhà thơ Vũ hoàng Chương đã than :
« Từ độ người về, hỡi loài man dại !
Dẫu vô tri, sỏi đá cũng buồn đau.
Tiếng thở dài vang tận đáy sông xâu,
Màu đỏ oan cừu hành hung phó chợ. »
Chính trị theo nguyên
nghĩa lúc đầu là con đường vương đạo, trái với bá đạo. Đó là quan niệm của
những bậc hiền triết từ Đông sang Tây. Chính trị là con đường đại đạo, con
đường dưa đến cái học lớn, như đức Khổng Tử, gốc người nước Tống, hiện là tỉnh
Hà Nam bên Tàu, vào thế kỷ thứ V trước tây nguyên, khi ngài nói : «
Đại
học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện » ( Con đường
dại học, đó là làm sáng cái đức sáng, làm mới người dân, ngừng lại chỗ tốùt cao
nhất. » Đó cũng là quan niệm về tám cái chính ( Bát Chính), của đức Phật, chính
ở đây cũng có nghĩa là ngay, thẳng như trong chữ chính trị. Bát chính đó là :
1) Chính định là định cái chỗ mình hiện hữu, có mặt một cách đúng ; 2) Chính
kiến là nhìn đúng : 3) Chính niệm là quan niệm đúng ; 4) Chính tư duy là
suy nghĩ đúng ; 5) Chính ngôn là nói đúng ; 6) Chính nghiệp là hành động đúng ;
7) Chính tín là tin tưởng đúng ; 8) Chính mạng là số mạng đúng.
Theo Mạnh Tử ( 372-289
trước Tây Lịch), thì chính trị đó là đặt quyền lợi của dân lên trên hết, khi
ngài nói : « Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh » có nghĩa là dân
quí nhất, sau đó mới tới luật pháp và cuối cùng mới tới quan quyền.
Ở Việt Nam ta, đức Trần
hưng Đạo, được ngừơi dân tự động coi như thánh nhân, chứ không phải bị bắt buộc
như đối với Hồ chí Minh, ngày sinh của ngài không rõ, nhưng ngài chết vào ngày
3/9/1300. Trước khi chết ngài nói đến chính trị, con đường vương đạo, với vua
Anh Tôn : « Khoan sức dân để làm kế xâu rễ, bền gốc, đó là cách giữ nước
hay hơn cả ! » ( Xin xem thêm bài Con Người Thánh Nhân Thương Dân yêu nước Tần
hưng Đạo và con người gian manh quỉ quyệt, buôn dân, bán nước Hồ chí Minh của
tác giả trên www.conong.com <http://www.conong.com> hay www.danchu.net
<http://www.danchu.net> với bút hiệu Trực ngôn hay Chu chi Nam).
Nguyễn Trãi (
1380-1442), quê ở huyện Thường Tính, tỉnh Hà Đông, cách chúng ta cả sáu bảy
trăm năm cũng quan niệm chính trị là vương đạo, trái với bá đạo, khi ngài nói :
« Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo .... Đem
nhân nghĩ để thắng hung tàn. Đem chí nhân để thay cường bạo » ( Bình Ngô Đại
Cáo).
Ở Tây phương chữ chính
trị ( Politique ) được định nghĩa là một khoa học hay một nghệ thuật trị quốc
hoặc một thái độ, một quyết định đúng đắn nhất ( La politique : science ou art
de gouverner un Etat, qui montre une prudence calculée) ( Larouuse) Cũng như
nhà triết học Proudhon định nghĩa chính trị là khoa học của tự do ( la
politique est la science de la liberté), có nghĩa là nghệ thuật cai trị dân dân
chủ nhất, coi trọng tự do của người dân nhất.
Nhưng về sau này, người
ta hiểu sai chữ chính trị, thay vì hiều nghĩa chính trị là chính đạo, vương
đạo, thì họ hiểu chính trị là tà đạo, bá đạo, làm chính trị là có quyền dùng
mọi phương tiện, thủ thuật, ngay dù vô luân lý, vô đạo đức, cướp của giết người,
miễn là đạt được mục đích của mình. Trường phái này dâuợc tăng cường với sự
xuất hiện của 2 chế độ độc tài toàn trị cộng sản và phát xít vào thế kỷ 20.
Staline đã từng đi ăn cướp để nuôi đảng. Trường Đông Phương ở bên Nga mà Hồ chí
Minh và Lưu thiếu Kỳ và nhiều người lãnh tụ các nước cộng sản thế giới xuất
thân là một trường dạy nói dối, đấu tranh bất hợp pháp, lén lút, khủng bố, cướp
của, giết người, đó là phần học chính.
Cách làm chính trị của
người cộng sản khác hẳn với quan niệm người xưa, đó là dùng bất cứ phương tiện
nào để cướp chính quyền ; và một khi có chính quyền rồi, thì dùng bất cứ phương
tiện nào, dù là chem giết, tù đày, để giữ chính quyền.
Theo người xưa, như theo
Aristote ( 384-322 trước Tây lịch), cắt nghĩa trong quyển Chính Trị ( La Politique)
: « Nguyên tắc căn bản của một chính quyền dân chủ đó là tự do, mà một
trong những chỉ dấu của tự do, đó là người công dân có thể lúc là người bị trị,
lúc là người cai trị, một chỉ dấu khác của tự do, đó là người dân có thể sống
đời sống mà họ mong muốn. »
Đó là định nghĩa chính
trị theo trường phái chính đạo hay tà đạo. Và từ đó chúng ta cũng có thể định
nghĩa thái độ chính trị theo 2 trường phái này. Nếu theo chính đạo, thì thái độ
chính trị là thái độ lựa chọn dứt khoát Chiên, Thiện , My,õ chống lại thái độ
lựa chọn cái dối trá, xảo quyệ, ác ôn, côn đồ, xấu xa, và cũng chống lại thái
độ không lựa chọn, lừng khừng của trường phái tà trị. Thái độ này rất cần thiết
cho mọi người, mọi công dân tốt, vì chỈ có thái độ chính trị tốt, thì con người
và xã hội mới trở nên tốt.
Làm chính trị là một cái
nghề như nghề bác sĩn kỹ sư. Đó là nghề của ông bộ trưởng, nghị sĩ, tổng thống,
thủ tướng, nếu ở trong một nước dân chủ, thì là do dân bầu ra, và họ có nhiệm
vụ và bổn phận phải áp dụng, thực hiện đường lối chánh đạo, có nghĩa là
lo phúc lợi cho dân, nếu không dân có quyền truất phế hay không bầu vào nhiệm
kỳ tới.
Người dân cần phải có
thái độ chính trị, có nghĩa là thái độ phân biệt phải trái, thiện ác, tốt xấu,
trắng đen, nhưng người dân không cần phải làm chính trị. Hiện nay bạo quyền
cộng sản Việt Nam cố tình lẫn lộn thái độ chính trị và làm chính trị để vu
khống những vị lãnh tụ tôn giáo. Những vị lãnh tụ tôn giáo, trước khi là tôn
giáo họ cũng là người, người Việt Nam, hơn thế nữa là tôn giáo, là lãnh tụ, họ
cần phải và có nhiệm vụ nói lên điều thiện, tố cáo điều ác, cổ võ diều chân,
cái đẹp, kết án giả dối, chỉ trích cái xấu.
Một số trí thức cộng sản Việt Nam,
hoặc ngu độn chưa hiểu tói nơi tới chốn, hoặc hiểu, nhưng hèn hạ, cố tình bênh
vực bạo quyền, hô hào phân biệt thần quyền và thế quyền, bảo rằng những vị lãnh
tụ tôn giáo Việt Nam như Hòa thượng Huyền quang, Quảng Độ, linh mục Nguyễn văn
Lý và nhiều Vị khác nữa là làm chính trị. Không, quí Vị đó không làm chính trị,
mà chỉ có thái độ chính trị, thái độ về thiện và ác, về chân và giả, về một
chính quyền độc đoán độc tài, buôn dân bán nước, làm khổ dân Việt.
Chúng ta đã
hiểu chính trị theo quan niệm của trường phái vương đạo hay bá đạo. Nhưng làm
thế nào để chính trị được hiểu và áp dụng như vương đạo ?
– Không
còn cách nào hơn là thực hiện dân chủ. Với dân chủ có sự phân biệt quyền hành
rõ ràng, để tránh sự lạm dụng quyền hành của những kẻ độc tài. Thêm vào đó, với
dân chủ, người dân có thể kiểm soát, bầu ra hay truất phế những người làm chính
trị, mỗi khi có những cuộc bầu cử qua lá phiếu của mình. Nói như Churchill : »
Dân chủ không phải là chế độ tốt đẹp nhất ; nhưng là chế độ tránh được nhiều
cái xấu nhất »
Paris ngày 24/09/04
Trực Ngôn Chu chi Nam
No comments:
Post a Comment
Thanks