Đại Học chăn Trâu




Sunday, 26 October 2014

Hội nghị Thành Đô và lập trường của chúng ta


Hội nghị Thành Đô và lập trường của chúng ta

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa: Mật ước Thành Đô phải được bạch hóa

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa: Mật ước Thành Đô phải được bạch hóa

 
















Huỳnh Ngọc Tuấn (Danlambao) - Hội nghị Thành Đô cho đến ngày hôm nay đối với CSVN vẫn là một “bí mật quốc gia”, nhưng theo người dân VN nhất là những người đấu tranh đòi Dân chủ - tự do vẫn là một sự nhức nhối không thể nào nguôi ngoai được vì vận mệnh quốc gia là một điều thiêng liêng đối với bất cứ dân tộc nào quốc gia nào thì đối với nhân dân VN vẫn là một điều không “tiếp cận” được.

Chính sự không được “tiếp cận” này đã tạo ra một tâm trạng hoài nghi vô cùng lớn trong xã hội VN kể cả những đảng viên CS còn một chút ưu tư về hiện tình đất nước.

Bản thân tôi đã từng nhiều lần đặt vấn đề với các cán bộ an ninh CSVN từ cấp Tỉnh đến cấp Bộ (mỗi lần bị triệu tập để “làm việc” về những bài viết của tôi trên báo mạng) về Công Hàm Phạm Văn Đồng và Hội nghị Thành Đô, nhưng tất cả bọn họ đều khẳng đình là “không hề tồn tại” cái Công hàm Phạm văn Đồng cũng như Hội nghị Thành Đô…!?

Cho đến mãi những ngày gần đây khi Trung cộng công khai Công Hàm Phạm Văn Đồng để biện minh cho cái gọi là “chủ quyền” của họ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì CSVN mới ú ớ phản biện một cách yếu ớt… với những luận điểm khó lòng được nhân dân VN chấp nhận.

Nhưng với Hội nghị Thành Đô đến ngày hôm nay CSVN vẫn giữ thái độ im lặng, một phần vì sự khinh thị, một phần lớn hơn là sự sợ hãi đối với phản ứng có thể có từ nhân dân VN.

Bối cảnh của Hội nghị Thành Đô

Năm 1985, tại Liên xô “thành trì” của “chủ nghĩa Xã hội” trên toàn thế giới diễn ra những biến cố trọng đại và một người có chủ trương cải cách là Mikhail Gorbachev lên làm Tổng bí thư đảng CS Liên xô- chủ tịch Xô viết tối cao, và đến ngày 15/3/1990 ông trở thành Tổng thống đầu tiên của Liên bang Xô viết.

Mikhail Gorbachev đã làm thay đổi diện mạo và hướng đi của chế độ CS độc tài lớn nhất hành tinh bằng hai chính sách mang tính duy tân là Glasnost và Perestroika, từng bước đưa Liên xô đi vào quỹ đạo Dân chủ

Mùa đông năm 1989, toàn bộ hệ thống CS tại Đông Âu hoàn toàn sụp đổ, một chỗ dựa của CSVN đã chuyển mình hội nhập vào cộng đồng các quốc gia Dân chủ.

Về quân sự Khối Warszawa giải thể đã làm thay đổi cán cân chiến lược toàn cầu có lợi cho Dân chủ, “hòn đá tảng” mà chủ nghĩa CS dùng làm đối trọng với thế giới tự do và xây dựng “sự nghiệp” trên đó đã hoàn toàn tan vỡ.

Những sự kiện trên diễn ra tại Liên Xô và Đông Âu làm cho CSVN chới với, khủng hoảng tột độ, còn Trung cộng thì hoang mang lo sợ.

Hai nhà nước CS lớn nhất thế giới còn lại trên hành tinh chúng ta “không hẹn mà gặp” vì cả hai cùng chia sẻ nỗi lo lắng bị nhân dân đứng lên lật đổ và máu sẽ chảy thành sông vì những tội ác tày trời của họ…

Nhưng dù sao Trung cộng cũng là một nước lớn và đã sớm đi vào cải cách kinh tế theo hướng thị trường từ đầu thập niên 80 của thế kỷ 20 nên tình hình kinh tế, chính trị và xã hội khá hơn nhiều so với CSVN.

Trong lúc “tứ cố vô thân” CSVN cần có chỗ dựa chính trị, kinh tế để tồn tại nên đã tự “trói mình” đến khấu đầu nhận tội với Bắc Kinh để được sự che chở của TC.

Theo thông lệ quốc tế việc hai quốc gia có những hiệp ước- hiệp định là chuyện bình thường, nhưng quan hệ VC- TC trước khi Đông Âu và Liên xô tan rã đang ở trong thế đối đầu và mâu thuẫn và Hà Nội theo lệnh của Liên xô không bao giờ coi TC là một nước trong “phe Xã hội chủ nghĩa”..!? Bây giờ lại đi cầu cứu Trung cộng thì cái quan hệ gọi là “hữu nghị” đó không thể nào được xác lập trên tinh thần bình đẳng và tương kính như những mối quan hệ quốc tế khác là một chuyện đương nhiên và ai cũng biết.

Trong mối quan hệ bất tương xứng và bất bình đẳng như vậy Hội nghị Thành Đô tại tỉnh Tứ Xuyên tất nhiên sẽ là một sự “đầu hàng” đúng nghĩa của Hà Nội với Bắc Kinh.

Cũng giống với Công hàm Phạm Văn Đồng, CSVN hoàn toàn giữ bí mật tuyệt đối về công hàm này, cho đến khi TC bạch hóa nó để gây áp lực với VC khi nhận thấy VC chần chừ không muốn thực hiện “cam kết” với Bắc Kinh về biển Đông.

Hiện nay nhân dân VN vẫn không được đảng CSVN cho biết là giữa họ và Bắc Kinh đã có một “Hội nghị Thành Đô” và trong cái gọi là Hội nghị đó đã thỏa thuận những gì?.

CSVN cứ tảng lờ không hề nói gì đến Hội nghị Thành Đô như thể chưa hề có để họ không phải giải thích về sự hiện diện của nó với công luận VN đang đòi hỏi... Đây là một thái độ trịch thượng, cao ngạo của CSVN đối với 90 triệu dân VN- người chủ thực sự của đất nước nhưng bị đối xử như công dân hạng hai…

Điều này nhân dân VN phải xem xét lại thái độ và cách hành xử của mình và nghiêm chỉnh đặt ra cho mình một câu hỏi: tại sao CSVN lại khinh thường nhân dân đến như vậy, phải chăng chúng ta quá hèn?.

Hệ lụy của Hội nghị Thành Đô

Sự bất minh trong thái độ của CSVN làm lưu truyền trong dư luận là CSVN đã cam kết với Trung cộng đến năm 2020 thì VN sẽ bị sát nhập vào Trung cộng với quy chế một tỉnh hoặc một vùng Tự trị..!?

Nhưng có thể cũng giống như Công Hàm Phạm Văn Đồng sự hoài nghi của nhân dân VN đối với Hội nghị Thành Đô là không hề sai... chỉ khác nhau ở chỗ là với Hội nghị Thành Đô đất nước Việt Nam mà 4000 năm lịch sử ông cha ta đã đổ bao nhiêu xương máu và trí tuệ để khai phá giữ gìn sẽ vĩnh viễn bị xóa tên trên bản đồ thế giới và dân tộc VN với 4000 năm văn hiến sẽ chỉ còn là một sắc dân thiểu số của Trung Hoa…!

Nếu Công Hàm Phạm Văn Đồng đã tạo lý cớ cho Trung cộng thôn tính Hoàng Sa - Trường Sa và biển Đông của VN mà CSVN câm như hến không dám phản ứng gì, thì với Hội nghị Thành Đô, Trung cộng sẽ có lý cớ để đem quân chiếm đóng toàn bộ đất nước VN thì cũng là chuyện không phải không thể xảy ra… vấn đề chỉ là thời gian mà thôi.

Lập trường của chúng ta

Chế độ CSVN hiện nay không đại diện cho nhân dân VN vì họ không được nhân dân VN lựa chọn thông qua một cuộc bầu cử dân chủ đích thực, nên CSVN không có tính chính danh và hợp pháp, vì vậy mọi Hiệp ước- Hiệp định hay cam kết của họ đối với bất cứ quốc gia đối tác nào cũng đều vô giá trị. Nhân dân VN mới là người quyết định sinh mệnh của quốc gia-dân tộc. Hội nghị Thành Đô chỉ là sự thỏa thuận giữa hai đảng CS, không liên quan đến Nhân dân VN và nhân dân VN không bị ràng buộc và chịu trách nhiệm thực hiện những gì đảng CSVN đã cam kết với Trung cộng.

Cho nên việc bạch hóa Hội nghị Thành Đô hay không là hoàn toàn không cần thiết vì tại sao chúng ta phải quan tâm đến một thứ hoàn toàn chẳng có giá trị pháp lý gì đối với nhân dân và đất nước Việt Nam…!?




Hội Nghị Thành Đô: đâu là sự thật?

 





Minh Trí (Danlambao) - Cách đây vài năm, trong lúc chuyện trò với một người bạn, anh ta cho tôi biết, anh có nhận được email của bạn bè gởi tới thì đến năm 2020 nước Việt Nam sẽ trở thành một khu tự trị của Tàu, giống như Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây, Tân Cương. Bởi vì CSVN đã ký kết mật ước với CSTrung cộng vào ngày 4/9/1990 tại Thành Đô, Thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu, VN sẽ trở thành ngôi sao nhỏ thứ sáu trên lá cờ Trung Cộng.

Ai trong chúng ta khi mới nghe tin “động trời” nầy lần đầu tiên không có ít nhiều hoài nghi về sự chính xác của nó. Một quốc gia có hơn 4 ngàn năm văn hiến, với 90 triệu đân số, có thể nào bị CS bí mật bức tử giết chết không một lời trăn trối. Làm sao tôi tin được điều nầy, nhất là chưa có cơ sở, chưa biết nguồn gốc từ đâu. Sợ người bạn mất lòng, tôi hỏi anh bạn: có thật vậy không để không phải nói đó là “tin vịt cồ”, chuyện hoang đường, giàu tưởng tượng.

Các nguồn tin

Tài liệu về Hội Nghị Thành Đô (HNTĐ) lúc đầu rất là ít ỏi. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, câu chuyện bí mật nầy trở thành vấn đề thời sự được bàn tán rất nhiều. Có nhiều dữ kiện mới, làm cho ta tin rằng, tại HNTĐ, CSVN có thể đã ký giao kèo bán nước VN cho Tàu vào năm 2020. Nếu trong khế ước không có định rõ ngày “giao hàng” thì cũng có những điều cam kết quan trọng buộc VN phải làm, để có thể hội nhập dễ dàng, lệ thuộc hoàn toàn vào xã hội Trung cộng, như sẽ được trình bày sau đây.

Chuyện có thật, là trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, HNTĐ được tổ chức tại Thành Đô (Thủ phủ tỉnh Tứ xuyên) bên Tàu, gồm có các lãnh tụ cao cấp hai nước Việt Nam và Trung cộng. Phía VN gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ Tương Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn và Đinh Nho Liêm, Thứ trưởng ngoại giao. (Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch không được tham dự vì Trung cộng không muốn sự hiện diện của ông). Phía bên Trung cộng có Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng... Mục đích của Hội nghị là để tái lập việc bang giao giữa 2 nước Việt-Trung bị gián đoạn 12 năm nay và tìm một thỏa hiệp cho việc chấm dứt chiến tranh Campuchia.

(Hình những người tham dự HNTĐ)
(Từ trái sang phải: Bằng, Dân, Linh, Mười, Đồng)

Một trong những tài liệu quan trọng về HNTĐ là quyển Hồi ký của Trần Quang Cơ (ông không có mặt trong Hội nghị Thành Đô), cựu Thứ Trưởng Bộ ngoại giao VC. Trong đó, ông có viết rằng VN không đạt được những điều mong muốn về vấn đề Campuchia. Trong 7 điểm mà 2 bên đồng ý chấp thuận, có 2 điểm theo lập trường của VN, còn 5 điểm kia là theo ý của Trung cộng. Tuy nhiên phía VN đồng ý với họ, vì muốn giải quyết cho xong vấn đề Campuchia để đi đến bàn việc bang giao giữa 2 nước Việt-Trung. Không biết họ có thảo luận, bàn cãi vấn đề bang giao hay không mà không thấy ông nói tới trong quyển Hồi ký của mình. Theo nhiều người suy luận, rất có thể đây là vấn đề quá ư quan trọng, 2 bên cam kết giữ tối mật. Trần Quang Cơ, một đảng viên CS kỳ cựu, dù có biết cũng không dám nói ra, vì trái với lời thề khi gia nhập vào đảng CS?

Để tìm hiểu thêm hư thật ra sao, GS Ngô Đức Thọ, chuyên viên về Hán văn, có dịch ra tiếng Việt tập “Nhật ký đối ngoại” của Lý Bằng, Thủ Tướng Trung cộng, người tham dự Hội nghị. Trong đó có những đoạn như sau: “Nguyễn Văn Linh hy vọng thực hiện bình thường hóa quan hệ 2 nước, 2 Đảng. Tôi đã hội báo với đồng chí Đặng Tiểu Bình. Xét vì lần nầy Á vận hội sắp khai mạc ở Bắc Kinh, mà lần họp nầy liên quan việc bình thường hóa quan hệ 2 nước là sự trọng đại. Để tiện cho việc bảo mật địa điểm hội đàm quyết định bố trí tại Thành Đô. Ngày 4/9 thứ ba, 2 bên tiếp tục họp và đồng ý bắt đầu soạn thảo “Kỷ yếu hội nghị”. Đến 2g30 chiều, tại Đại sảnh từng 1 khách sạn Kim Ngưu, 2 bên cử hành lễ ký kết chánh thức, rất là trọng thể. Đây là bước ngoặc mang tính cách lịch sử của quan hệ 2 nước Trung- Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân có tặng cho phái đoàn VN 2 câu thơ của Lổ Tấn được dịch ra như sau: “Sau kiếp nạn, anh em còn đó. Trông nhau cười, thù hận sạch không.”

Trong quyển “Nhật ký đối ngoại” của Lý Bằng, lại không thấy viết điều gì đến Campuchia. Chỉ thấy ông nói đến “Kỷ yếu hội nghị” mà nội dung không được công bố ra ngoài. Có lẽ 2 bên đã cam kết như thế.

Cho đến năm 2014, nhiều cơ quan truyền thông, hội đoàn trở lại xôn xao bàn tán về Hội nghị Thành Đô, vì có nhiều sự kiên mới.

Trên mạng truyền thông của Hội Thánh Phục Quyền, ông Trúc Giang, lấy nguồn tin của mình từ Wikileaks có viết những dòng sau đây: “Wikileaks xác định văn kiện sau đây là một trong 3100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Biên bản buổi họp kín giữa Nguyễn văn Linh, Tổng Bí Thư đảng CSVN, Đỗ Mười, Thủ Tướng, đại diện phía VN, và Giang Trạch Dân TBT/CSTrung cộng, Lý Bằng Thủ Tướng, đã họp 2 ngày từ 3,4/9/1990, tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung cộng. Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa CS, đảng CS và nhà nước VN đề nghị phía Trung cộng giải quyết các mối bất đồng giữa 2 nước. Phía VN sẽ hết sức mình để vung đắp tinh hữu nghị lâu đời vốn có giữa 2 đảng và nhân dân 2 nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và VN bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chính quyền Trung Ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng Tây. Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho VN thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.”

(Xin ghi thêm: Wikileaks.org là mạng của một tổ chức bất vụ lợi do ông Julian Assange, người Úc, điều khiển. Không hiểu làm sao tổ chức nầy có được những tài liệu tối mật có tính cách quan trọng liên quan vấn đề quốc gia, như tham nhũng, chiến tranh. Những công điện mật mà các Tòa Đại sứ Mỹ gởi về Bộ ngoại giao Mỹ. Mức khả tín của Wikileaks rất là cao).

Ông Long Điền, thuyết trình viên trong một Hội Luận kéo dài 2 tiếng đồng hồ, bàn về Hội nghị Thành Đô, được tổ chức ở Mỹ ngày 31/8/2014, xác nhận là ông có giữ bản công điện trong Wikileaks bằng tiếng Anh. Hội luận nầy được hỗ trợ bởi nhiều Tổ chức, Hội đoàn chống cộng, như nhóm 8406, LM Phan Văn Lợi…

Đặc biệt, mới đây, nhân lúc xảy ra tranh chấp vụ giàn khoan dầu HD 981, 2 tờ báo lớn của Trung cộng là Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã cùng nhau công bố những chi tiết mà họ gọi là sự thật về “Kỷ yếu Hội Nghị” như đã nói ở trên, có nội dung y như tiết lộ của Wikileaks. (Tân Hoa xã là cơ quan thông tin chánh thức của chánh phủ Trung cộng. Thời báo Hoàn cầu (Global Times) là một chi nhánh của tờ báo Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng CSTrung cộng). Có người cho rằng, việc đăng tải tài liệu mật của 2 tờ báo nầy do lệnh của chánh phủ Trung cộng với mục đích làm nhục và chia rẽ nội bộ chánh phủ VN, có tác dụng bịt miệng phía VN, đừng đi xa hơn nữa, bỏ qua việc kiện thưa các vụ tranh chấp về biển đảo, khoan dầu. VN đành câm miệng, không thêm một lời nói từ đó đến nay.

Phản ứng trong nước

Trong quốc nội, dư luận vô vùng xôn xao, và bắt đầu có phản ứng, nhất là từ lúc 2 tờ báo của đảng và của chánh phủ công bố nội dung. Theo bản tin RFA ngày 5/9/2014, có 20 cựu sĩ quan cao cấp CS gồm có Trung tướng, Thiếu tướng và Đại tá ký kiến nghị gởi lên chánh phủ VN đòi hỏi phải báo cáo rõ ràng với nhân dân về thực trạng quan hệ Việt Trung, phải trả lời có hay không: “VN mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chánh quyền trung ương tại Bắc Kinh... Phía Trung cộng đồng ý và chấp nhận cho VN thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung cộng, như 2 tờ báo Hoàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xã đã công bố mới đây về HNTĐ”?

Những người trẻ tranh đấu cho tự do trong nước đã lập Phong trào “Chúng Tôi Muốn Biết” đang vận động xin chữ ký của nhân dân để đòi hỏi Quốc Hội CS phải trả lời cho rõ về HNTĐ. Ngày 15/10/2014, họ đến Quốc Hội đưa kiến nghị, lại bị đàn áp.

Trước dư luận tai hại nầy, mới đây, Ban Tuyên giáo Trung ương đảng CS có soạn tài liệu cho đảng viên học tập, giải thích về nội dung HNTĐ. Họ xác nhận rằng 2 bên đã đạt được sự thỏa thuận về các vấn đề như là: “chấm dứt tuyên truyền chống đối nhau; giải quyết các tranh chấp, đặc biệt về lãnh thổ bằng đường lối hòa bình; xem xét để các tỉnh hai biên giới có thể bàn bạc nhau; bổ sung các Hiệp định đã ký giữa 2 nước... Không hề có cái gọi là: VN sẽ trở thành khu tự trị trực thuộc Trung cộng, giống như Nội Mông, Tân Cương, Quảng Tây vào năm 2020. Đây là một luận điệu bịa đặt với ý định kích động các đảng viên và trong các tầng lớp quần chúng”. Không cần phải nói, ai mà tin những lời giải thích nầy của CS. Có gì khó khăn đâu, hãy đưa ra cho nhân dân xem nguyên bản HNTĐ có chữ ký của 2 bên. Làm sao CS dám làm điều nầy, để tự sát hay sao!

Đâu là sự thật?

Trên đây là những nguồn tin nói về HNTĐ. Hư thực ra sao phải đợi tối đa 6 năm nữa, đến năm 2020. Cũng có thể đến lúc đó chúng ta vẫn chưa biết được sự thực, vì 2 bên tiếp tục tuyệt đối bảo mật, sợ nhân dân biết, nổi lên lật đổ CSVN.

Theo tôi nghĩ, chuyện CS ký tên bán đứng đất nước VN thật sự đã xảy ra bằng một trong hai hình thức sau đây: Hoặc là “món hàng” sẽ được chuyển giao một lần duy nhất vào năm 2020. Hoặc là đã được giao nhiều lần rồi, từ 24 năm nay: đó là những Hiệp định, cam kết thiệt thòi mà Việt-Trung đã ký kết từ năm 1990 đến nay. Tại sao Trần Quang Cơ, Lý Bằng không nói gì đến việc liên hệ ngoại giao giữa 2 nước trong Hồi Ký và nhật ký của mình? Bởi vì đó là những bí mật quốc gia họ cam kết không được tiết lộ. Tại sao Wikileaks và 2 tờ báo Trung cộng Tân Hoa Xã và Thời báo hoàn cầu xác nhận nội dung bí mật là đúng? Bởi vì đó sự thật. Tại sao mới đây Ủy viên Quốc Vụ viện Dương Khiết Trì sang VN gặp Trọng, Sang nói rằng: mục đích chuyến đi là mang đứa con hoang trở về với Tổ quốc, và nhắc nhở phải tuân theo một số điều cấm kỵ không được làm. Và từ đó đến nay ta thấy các lãnh tụ VC im hơi lặng tiếng.

Mặc khác, hãy nhìn xem tình trạng ngặt nghèo bi đát của VN trong những năm trước 1990: Trung cộng là kẻ thù số 1; Liên Xô sắp cắt viện trợ; Các quốc gia CS Đông Âu đang từ bỏ chủ nghĩa CS; nhân dân trong nước không có việc làm, nghèo đói phải ăn gạo móc... Bộ Chính trị đảng CSVN phải làm mọi cách để được sống còn, cho mình, cho gia đình mình, dù có phải phạm tội tày trời là tội bán nước. Rõ ràng ta đã thấy một Phạm Văn Đồng, năm 1958 đã ký văn kiện bán 2 đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mặc dù lúc đó họ chưa bị dồn vào tình thế bi đát như những năm 1987-1990. Hơn nữa lần nầy đứng đàng sau Trung cộng có con cáo già Đặng Tiểu Bình dùng mọi thủ đoạn chèn ép, bắt chẹt phía VN đến tận cùng. Họ Đặng không thèm dự Hội nghị, còn nói: “Tôi đâu muốn gặp đồ ăn cháo đá bát đó”.

Hậu quả HNTĐ

Nếu sự thật có đúng như Wikileaks công bố, tức là đến năm 2020 VN sẽ trở thành một khu tự trị trực thuộc Bắc Kinh, điều nầy không có giá trị pháp lý. Đất nước VN không phải của đảng CS, mà thuộc về tài sản thiêng liêng của nhân dân. Chỉ có nhân dân VN mới có quyền quyết định sự tồn vong của nó bằng một cuộc trưng cầu dân ý, cần được Quốc hội chuẩn phê. Tuy nhiên, nếu giả thuyết nầy mà đúng, về phương điện chánh trị, HNTĐ có giá trị thật là lớn, là một cơ hội bằng vàng cho dân tộc VN. Thử hỏi lúc đó nhân dân có ngồi yên cho CSVN bán đi đất nước do Tổ Tiên để lại hay sao? Khi đó, chính là giờ phút cáo chung của CSVN, toàn dân sẽ thức tỉnh, đoàn kết tay trong tay đứng lên đòi lại tự do, độc lập cho đất nước.

Dù cho sự thật không hoàn toàn đúng như trên, HNTĐ cũng đã đóng vai trò như một trạm giao liên đầu tiên, một người dẫn đường cho CSTrung cộng đi vào VN từ Bắc tới Nam từ Đông sang Tây, từ từ xâm chiếm trọn lãnh thổ VN.Từ năm 1990 cho đến ngày hôm nay, VN đã ký kết những hiệp định thiệt thòi lép vế với Trung cộng về những vấn đề kinh tế, chánh trị, quân sự, văn hóa, di dân, khoa học...

Cái khung căn bản về liên hệ ngoại giao kể từ ngày 2 nước trở lại “như anh em trong đại gia đình”, là 4 chữ tốt và 16 chữ vàng (Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai). Dựa vào 16 chữ vàng, 2 bên đã ký kết nhiều thỏa hiệp bất lợi, lép vế cho VN, chẳng hạn như:

Hợp tác toàn diện về kinh tế: Thiết lập luật pháp căn bản về kinh tế, Hiệp định về thương mại, bãi bỏ thuế xuất nhập khẩu. Nhờ những luật lệ ưu đãi như vậy, nhà thầu Trung cộng gần như thắng thầu hầu hết những vụ quan trọng. Hàng hóa rẻ tiền Trung cộng chiếm đa số thị trường VN, khiến cho công nhân trong nước thất nghiệp. Sự chênh lệch về cán cân mậu dịch giữa 2 quốc gia quá bất lợi cho VN: Năm 2013, VN nhập gần 37 tỷ, xuất gần 14 tỷ.

Hợp tác toàn diện về giáo dục: VN cam kết vận động quần chúng thực hiện tốt 16 chữ vàng và 4 chữ tốt. Trong dịp Tập Cận Bình qua thăm VN, ta đã thấy trên cờ Trung cộng có thêm một ngôi sao thứ sáu ám chỉ VN!

Trung cộng di dân vào VN: Người Trung cộng vào VN không cần visa nhập cảnh. Họ đã có mặt trên khắp đất nước. Chúng chiếm đóng các vị trí chiến lược, thuê đất với giá rẻ mạt ở biên giới phía Bắc, Bauxit Tây nguyên, Cà Mau. Khu phố Tàu Bình Dương, trong đó một trường Đại học quốc tế, một bệnh viện 1000 giường, một khu thể thao, hội nghị, tiệc cưới, một sân golf... Người Trung cộng ở đây sinh hoạt theo phong tục của họ. Luật pháp VN bị bỏ vào sọt rác. Nhân viên công lực VN không được vào kiểm tra.

Mới đây, ngày 21/6/2013 trong bản tuyên bố chung của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và TBT Tập Cận Bình có ghi rằng 2 bên đồng ý lập một đường dây nónggiữa Hà Nội và Bắc Kinh về những vấn đề liên quan quân sự, quốc phòng, an ninh, ngoại giao. Đường dây nóng có nghĩa là những vấn đề nầy phải thông báo và nhận lệnh từ Bắc Kinh.

Sau HNTĐ, Nguyễn Cơ Thạch, lúc còn làm Bộ Trưởng Bộ Ngoại giao VC có nói:“Một thời kỳ Bắc thuộc nguy hiểm bắt đầu”. Câu nói nầy, làm cho ta suy ngẫm thêm về bí mật HNTĐ. (Nguyễn Cơ Thạch tên thật là Phạm Văn Cương, cha ruột của Phạm Bình Minh, đương kim Ngoại trưởng CS).

Hậu quả tệ hại của HNTĐ suốt trong 24 năm nay, từ từ thấm vào và lan rộng trong xã hội, làm cho dân tộc VN càng ngày càng gầy yếu bịnh hoạn. Cho đến ngày hôm nay, bịnh tình đã quá nặng, có lẽ không còn cách cứu chữa nữa, trừ khi có một phép mầu nào đó!

Ngày nay, để mở rộng lãnh thổ mình, Trung cộng dùng những phương cách mềm mỏng, kín đáo, thay thế cách thức dùng quân đội, dùng súng đạn chiếm đất như thời xa xưa. Chiến lược mới nầy được gọi là “ranh giới mềm”. Họ đang áp dụng chiến thuật nầy đối với dân tộc VN.

Đến đây, tôi nhớ lại một bài viết của BS Trần Mộng Lâm, về chiến thuật luộc ếch của CSTrung cộng, trong đó có đoạn: “Theo thí nghiệm của John Hopkins 1982, nếu ta bỏ con ếch vào một nồi nước sôi, thì con ếch sẽ giãy giụa và nhảy ra khỏi nồi. Nhưng nếu ta bỏ con ếch vào nồi nước lạnh, rồi tăng nhiệt độ từ từ, thì ếch ngồi trong đó thoải mái cho đến khi bị luộc chín lúc nào không biết”. Nhân dân VN đang bị Trung cộng luộc trong nồi nước lạnh mà chưa chịu đứng lên! Phát giác sự thật trong HNTĐ là cơ hội bằng vàng cho toàn dân VN, thấy rõ được bản chất xấu xa CS mà tỉnh dậy nhảy ra khỏi nồi nước lạnh luộc ếch của Trung cộng.

Phải chi Mỹ đi trước Trung cộng một bước, thì không có HNTĐ và dân tộc VN đã được hưởng dân chủ tự do từ lâu

Thử nhìn lại hoàn cảnh lịch sử thế giới vào thời HNTĐ. Năm 1989, bức tường Bá Linh sụp đổ. Liên xô và các quốc gia Đông Âu từ bỏ chế độ CS hướng theo đường lối dân chủ Tây Phương. Chiến tranh lạnh giữa 2 khối CS-Tư bản chấm dứt. Tài chánh thiếu hụt, Liên Xô do Mikhail Gorbachev lãnh đạo (1986-1991) cho các quốc gia CS đàn em biết rõ là họ sẽ không được viện trợ nữa, trong đó có VN. Mỹ bất chiến tự nhiên thành, không tốn một đồng xu, đất nước sống trong thịnh vượng, đứng nhìn chế độ CS Đông Âu sụp đổ. Còn Trung cộng đang gặp nhiều khó khăn trước luồng gió tự do từ Đông Âu thổi đến: hàng trăm ngàn thanh niên, sinh viên, học sinh biểu tình tại Thiên An Môn, đòi hỏi nhân quyền, tự do. TBT Triệu Tử Dương và Bộ trưởng quốc phòng nghiên theo phe cải cách. Đặng Tiểu Bình lúc đầu nghiên về phe cải cách, nhưng sau cùng thay đổi lập trường ra lệnh Lý Bằng đàn áp biểu tình. Chính phủ Trung cộng phải dùng xe tăng từ xa chạy về đàn áp. Khoảng 1000 thanh niên chết, và 10000 người bị thương. Trung cộng đang bị cô lập, không có bạn, vì bất hòa với Liên Xô.

Phần VN thì tình trạng kinh tế, xã hội rất là bi đát. Chiến tranh trước đây với Trung cộng và Campuchia làm cho kiệt huệ. Liên Xô sắp cắt viện trợ. Bị Mỹ cấm vận. Hà Nội nhận ra không thể nào tiếp tục tình trạng nầy, phải thay đổi toàn diện để sống còn. Trường Chinh có gặp Gorbachev để trình bày kế hoạch đổi mới. Bộ chánh trị như người sắp chết đuối. Họ phải làm sao đây?

Thượng sách là bỏ hẳn chủ nghĩa CS đưa tay xin Mỹ cứu giúp. Hạ sách và cũng là phương cách cuối cùng, là hạ mình xin cầu hòa với anh Trung cộng láng giềng. Đây không phải là chuyện dễ làm, vì mới hôm qua 2 bên còn đánh nhau trên chiến trường, rành rành trong lời nói đầu Hiến Pháp VN còn ghi rõ Trung cộng là kẻ thù số 1. Trần Quang Cơ có viết trong quyển Hồi Ký: “Ngày 20/5/1987, Bộ Ngoại giao có làm tờ trinh lên Bộ Chánh trị xin sửa đổi lời nói đầu của bản Hiến pháp, bỏ chỗ nói Trung cộng là kẽ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất. Mãi tới 26/8/1988, Quốc Hội mới thông qua dự luật nầy”. Có phải chăng thời gian 15 tháng dài chờ đợi, là lúc CS muốn tìm một vị cứu tinh khác Trung cộng hay không? Nếu lúc đó, Mỹ sốt sắng đưa tay kéo CSVN quay về với thế giới tự do, sẽ không có HNTĐ. Nguyễn Văn Linh và các đồng chí trong Bộ chánh trị sẽ vui mừng đến Mỹ để dự Hội nghị Hoa Thịnh Đốn. Bàn cờ thế giới ngày hôm nay sẽ khác hẳn. Mỹ có thêm một nước bạn tốt với 90 triệu dân, yêu thích tự do, nhân quyền, giống như nước Nhật, Philippines... Ngày nay, chiến lược đối ngoại của Mỹ không cần phải “xoay trục về Á châu”. Rất tiếc Mỹ đã bỏ rơi một cơ hội bằng vàng cho chính mình và cho cả dân tộc VN! Hay là lúc đó, tại vì Mỹ coi nhẹ VN, không muốn làm mích lòng Trung cộng, muốn hòa thuận với Trung cộng để cô lập Liên Xô, sợ mất thị trường vĩ đại Trung cộng. Để cho Nguyễn văn Linh, hết đường đi, chịu nhục xin xỏ kẻ thù, nhắn gởi Giang Trạch Dân rằng: “bất cứ lúc nào đồng chí cho gọi một tiếng là tôi đi ngay”. Mới hôm qua Trung cộng là kẻ thù số 1, hôm nay là láng giềng tốt, đồng chí tốt, người bạn tốt, đối tác tốt! Hành động muối mặt đó đủ chứng minh rằng CSVN chọn HNTĐ là vì không còn sự chọn lựa nào khác. (Giai đoạn quan trọng nầy xảy ra dưới thời 2 vị Tổng Thống George H.W. Bush (1989-1993) và Ronald Reagan (1981-1989).

Ta hãy chuẩn bị và chờ đợi cơ hội khác, xảy ra không biết lúc nào, tối đa 6 năm nữa. Lúc đó HNTĐ trở thành một dịp may ngàn năm một thuở, có tính cách mầu nhiệm để kêu gọi 90 triệu con tim yêu nước đứng lên lật đổ chế độ CSVN.

Montréal, 23/10/2014



No comments:

Post a Comment

Thanks

Featured post

Lisa Pham Vấn Đáp official 8/6/2023

Popular Posts

Popular Posts